Bài diễn văn của
ĐTC Phan-xi-cô trước các đại diện của nhà nước và chính phủ Thổ-nhĩ-kì trong
dinh tổng thống tại thủ đô Ankara: „Chúng
ta cần một cuộc đối thoại!“
Kính
thưa ngài tổng thống,
kính
thưa ngài thủ tướng,
kính
thưa các vị đại diện của chính quyền và
của các sinh hoạt công cộng,
kính
thưa quý ông và quý bà:
Tôi
rất vui vì được đến thăm đất nước của quý vị, một đất nước phong phú về những vẻ
đẹp thiên nhiên cũng như lịch sử, một đất nước ngập tràn các dấu chứng của các
nền văn hóa cổ xưa. Đất nước của quý vị là một cây cầu tự nhiên giữa hai châu lục
và giữa những hình thức diễn tả văn hóa khác nhau. Đất nước này là nơi quý giá
đối với bất cứ Ki-tô hữu nào, vì cuộc chào đời của Thánh Phao-lô đã diễn ra
trên mảnh đất này, và vì Thánh Phao-lô đã thiết lập nên nhiều Cộng Đoàn Ki-tô hữu
khác nhau tại đây; vì mảnh đất này đã là nơi diễn ra bảy Công Đồng đầu tiên của
Giáo hội, và vì, chiếu theo một truyền thống đáng kính, „Ngôi Nhà của Đức
Maria“ tọa lạc tại đây, gần bên Ê-phê-xô; địa điểm này, tức nơi mà Thân Mẫu của
Chúa Giê-su đã sống một số năm, chính là đích đến của nhiều người hành hương
trên toàn thế giới, không chỉ có các Ki-tô hữu, nhưng cũng còn có cả các tín hữu
Hồi giáo nữa, họ đi hành hương tới đây để tôn kính Đức Mẹ.
Nhưng
những lý do dành cho sự kính trọng và sự cao quý đối với Thổ-nhĩ-kì không phải
là điều duy nhất và độc lập để kiếm tìm trong quá khứ của nó, trong các công
trình cổ xưa của nó, nhưng chúng thể hiện trong sự sinh động hiện tại của nó, trong
sự chuyên cần và trong sự rộng lượng của dân tộc này, nơi vai trò của nó trong
sự hòa hợp giữa các quốc gia.
Đối
với tôi, đó là một lý do để vui mừng, để có được cơ hội hầu tiếp tục một cuộc đối
thoại chân thành, kính trọng và cao thượng đối với quý vị, mà cuộc đối thoại ấy
đang tiếp tục để lại dấu ấn, nó đã được chọn hướng đi bởi các vị tiền nhiệm của
tôi là Chân Phúc Phao-lô VI, Tân Hiển Thánh Gio-an Phao-lô II, và Đức
Bê-nê-đíc-tô XVI; một cuộc đối thoại đã được chuẩn bị sẵn từ thời Đức Tổng Giám
Mục Angelo Giuseppe Roncalli thông qua chức vụ Sứ Thần Toà Thánh của Ngài hồi
đó, tức Đức Gio-an XXIII sau này, và đã được thúc đẩy bởi Công Đồng Vatican II.
Chúng
ta cần có một cuộc đối thoại có khả năng đào sâu về sự hiểu biết trước những vấn
đề mà chúng liên kết chúng ta lại với nhau, và sự hiểu biết ấy làm cho những đắn
đo suy tính đạt tới giá trị, và đồng thời cuộc đối thoại đó cũng cho phép chúng
ta cân nhắc một cách cẩn thận tới những điều khác biệt, với tình cảm khôn ngoan
và thanh thản, cũng như để rút ra những bài học từ những điều khác biệt ấy.
Thật
cần thiết rằng, sự dấn thân để kiến tạo nên một nền hòa bình lâu bền dựa trên sự
tôn trọng các quyền căn bản và những bổn phận trong mối liên hệ đến phẩm giá
con người, sẽ được tiếp tục thực hiện với sự kiên nhẫn. Bằng phương cách ấy, những
thiên kiến và những nỗi sợ sai quấy sẽ tự để cho mình bị vượt thắng; thay vào
đó, sẽ đưa tới một không gian cho sự kính trọng, cho sự gặp gỡ và cho sự phát
triển của những năng lực tốt hơn, nhằm đưa đến điều tốt đẹp cho tất cả.
Vì
thế, điều căn bản ở đây là: những công dân Hồi giáo, Do-thái giáo và Ki-tô giáo
– kể cả trong những quy định thuộc pháp luật cũng như trong sự thi hành thực tế
của những quy định đó – đều được hưởng những quyền lợi như nhau cũng như đều đảm
nhận những trách vụ như nhau. Với phương cách ấy, họ sẽ dễ dàng nhìn nhận nhau
như là anh chị em cũng như là những người bạn đường của nhau, càng ngày càng dũ
bỏ đi được những hiểu lầm, và thúc đẩy sự cộng tác cũng như sự đồng tâm nhất
trí. Sự tự do tôn giáo và sự tự do bày tỏ quan điểm mà nó thật sự được bảo đảm
cho tất cả, sẽ thúc đẩy sự phát triển của tình bạn, và là một chỉ dấu hùng hồn
của hòa bình.
Vùng
Trung Cận Đông, châu Âu và cả thế giới đang trông chờ cuộc trổ bông ấy. Đặc biệt
là tại vùng Trung Cận Đông, đã từ rất nhiều năm nay, vẫn là bãi chiến trường của
những trận chiến huynh đệ tương tàn, mà chúng có vẻ như nhằm cắt đứt mối quan hệ
hỗ tương, mà xem ra có vẻ như câu trả lời duy nhất và có thể, đối với chiến
tranh và bạo lực, vẫn phải là một cuộc chiến mới, cũng như một cuộc bạo lực
khác.
Vùng
Trung Cận Công còn phải gánh chịu nguyên nhân của sự thiếu vắng hòa bình cho tới
bao lâu nữa? Chúng ta không được phép bằng lòng với một sự leo thang của các cuộc
xung đột, ra vẻ như không thể có một sự thay đổi nào khác nhằm đưa đến sự cải
thiện cho tình trạng này! Với ơn trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta luôn luôn có
thể và nên tái khôi phục lại lòng can đảm để xây dựng hòa bình! Thái độ này sẽ
dẫn đưa tới việc sử dụng tất cả mọi phương tiện của việc đàm phán, với sự chân
thành, với sự kiên nhẫn và với sự kiên quyết, cũng như sẽ dẫn đưa tới việc đạt
tới được những mục tiêu rất cụ thể đối với hòa bình và với sự phát triển bền vững.
Kính
thưa ngài tổng thống, để đạt tới được mục tiêu cao cả và khẩn thiết ấy, một sự
đóng góp quan trọng có thể hình thành từ cuộc đối thoại liên tôn và đa văn hóa.
Với cách thức ấy, bất cứ hình thức nào của chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa khủng
bố, tức những chủ nghĩa hạ thấp phẩm giá của tất cả con người, và lạm dụng các
tôn giáo, cũng đều phải bị xua tan.
Thật
là cần thiết trong việc ngăn cản chủ nghĩa cuồng tín, chủ nghĩa cực đoan, những
mối ác cảm phi lý mà chúng khơi lên sự hiểu lầm cũng như sự phân biệt đối xử, tức
những điều đi ngược lại với sự liên đới của tất cả các tín hữu, mà sự liên đới
đó, với tính cách là trụ cột, mang trong mình sự kính trọng đối với sự sống con
người cũng như đối với sự tự do tôn giáo, tức sự tự do văn hóa, tự do sống theo
một luân lý tôn giáo. Một trụ cột tiếp theo hàm chứa trong sự nỗ lực hầu bảo đảm
cho tất cả mọi người những điều cần thiết để sống một cuộc đời xứng với phẩm
giá, và sau cùng, trong mối bận tâm tới việc bảo vệ môi trường thiên nhiên.
Trong sự khẩn thiết đặc biệt, các dân tộc và các chính phủ của vùng Trung Cận
Đông cần có điều đó, để sau cùng „làm thay đổi xu hướng“ và thúc đẩy tiến trình
hòa bình với kết quả tích cực, cũng như thúc đẩy điều đó với sự tẩy chay chiến
tranh và bạo lực, quyết tâm theo đuổi con đường đối thoại, lẽ phải và công bình.
Tiếc
rằng trong thực tế, cho tới hôm nay chúng ta vẫn còn đang phải là nhân chứng của
những cuộc xung đột nặng nề. Đặc biệt tại Syria và tại Irak, bạo lực khủng bố
đã không miễn trừ bất cứ một cơ sở nào. Người ta đang trải qua sự vị phạm luật
nhân đạo một cách căn bản nhất về những gì liên quan tới các tù nhân cũng như tới
tất cả các nhóm dân tộc. Những cuộc bách hại nặng nề đã xảy đến và vẫn đang còn
diễn ra nhằm hủy hoại những nhóm thiểu số, đặc biệt – nhưng không chỉ là – các Ki-tô
hữu và những người Jesiden. Hàng trăm ngàn người đã bị cưỡng ép bỏ lại nhà cửa
và quê hương sứ sở của mình nhằm cứu lấy cuộc sống riêng cũng như trung tín với
niềm tin riêng của mình.
Vì
thế, Thổ-nhĩ-kì, tức quốc gia đã đón nhận một số lớn những người tị nạn một
cách hào hiệp, đã bị đụng chạm đến một cách trực tiếp bởi những hậu quả của
tình trạng bi ai này nơi vùng biên giới của mình. Cộng đồng quốc tế có bổn phận
luân lý phải trợ giúp quốc gia này trong việc chăm sóc những người tị nạn. Bên
cạnh sự cần thiết của việc cứu trợ nhân đạo, người ta không thể cứ lỳ ra mãi
trong sự bàng quang trước những điều mà chúng đã gây ra những thảm cảnh ấy.
Ngay cả khi tôi nhấn mạnh rằng, được phép ngăn chặn một kẻ tấn công cách bất
công, nhưng vẫn luôn trong sự phù hợp với quyền lợi của các dân tộc, tôi cũng vẫn
muốn nhắc nhớ rằng, người ta không thể phó mặc việc giải quyết các vấn đề cho một
mình sự phản ứng về quân sự.
Một
sự cùng tham gia một cách mạnh mẽ hơn mà nó đặt nền tảng trên sự tin tưởng lẫn
nhau, là điều cần thiết nhằm tạo điều kiện cũng như khích lệ một nền hòa bình dài lâu, để rốt cuộc
không dành các phương tiện tài chính cho việc trang bị vũ khí nữa, nhưng dành
cho những cuộc „chiến đấu“ thực sự, mà những cuộc chiến đấu ấy xứng đáng với
con người: cuộc chiến chống lại sự nghèo đói và chống lại bệnh tật, cho một cuộc
phát triển bền vững và sự bảo vệ môi trường thiên nhiên, cuộc chiến nhằm bảo vệ
con người trước những hình thức muôn hình vạn trạng của sự nghèo túng và sự
khai trừ mà chúng không hề thiếu vắng trong thế giới hiện đại.
Thông
qua lịch sử, cũng như dựa trên vị thế địa lý của mình, và vì tầm quan trọng mà
Thổ-nhĩ-kì đang có được trong vùng, quốc gia này có một trách nhiệm to lớn: những
quyết định và gương sáng của quốc gia này sở hữu một trọng lượng đặc biệt, và
có thể trở thành một sự trợ giúp quan trọng trong việc thúc đẩy một cuộc gặp gỡ
giữa các nền văn hóa, và trong việc tìm kiếm những con đường có thể đi qua được
đối với hòa bình và đối với một sự tiến bộ thực sự.
Ước
gì Đấng Toàn Năng sẽ chúc lành cho Thổ-nhĩ-kì cũng như bảo vệ đất nước này; xin
Người giúp đỡ quốc gia này để quốc gia này trở nên một kiến trúc sư lành nghề
và đáng tin cậy của nền hòa bình.
Thổ-nhĩ-kì ngày 28 tháng 11 năm 2014
ĐTC Phan-xi-cô
Minh Trần – CTV
của trang thông tin Giáo xứ Thánh Mẫu – chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét