TUYÊN NGÔN PERSONA HUMANA : VỀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẠO ĐỨC TÍNH DỤC - Bộ Giáo Lý Đức Tin, 1975
I.
Theo
nghiên cứu khoa học đương thời, con người chịu ảnh hưởng của tính dục một cách
rất sâu xa, đến nỗi tính dục phải được xem như một trong các yếu tố làm nên nét
chính yếu của đời sống mỗi cá nhân và là nét phân biệt người này với người
khác. Thật vậy, chính từ tính dục mà con người tiếp nhận các đặc tính mà, trên
bình diện sinh học, tâm lý, và thiêng liêng, làm thành con người là nam hay là
nữ, và qua đó chúng điều kiện hóa sự phát triển của người ấy hướng đến sự trưởng
thành và sự hội nhập vào xã hội. Như thế, rõ ràng đối với mọi người, ngày nay
các vấn đề tính dục là một đề tài được bàn thảo một cách thông thường và cởi mở
trong các sách vở, báo chí, và các phương tiện truyền thông xã hội khác.
Trong
giai đoạn hiện tại, sự tha hóa luân lý gia tăng, và một trong các dấu chỉ
nghiêm trọng nhất của sự tha hóa này là sự tán dương tình dục một cách buông thả.
Hơn nữa, qua các phương tiện truyền thông xã hội và qua các giải trí công cộng,
sự tha hóa này đã lên đến mức xâm nhập vào lãnh vực giáo dục và gây ô nhiễm não
trạng chung.
Trong
bối cảnh này, một số nhà giáo dục, các thầy cô giáo, và các nhà luân lý có thể
đóng góp cho một sự hiểu biết và hội nhập tốt hơn vào đời sống của các giá trị
riêng biệt cho mỗi phái tính; mặt khác có những người đã đẩy mạnh các khái niệm
và loại hành vi cư xử trái ngược với đòi hỏi luân lý đích thật của con người. Một
số người trong nhóm này còn đi xa hơn, là cổ vũ cho một chủ nghĩa khoái lạc
phóng túng.
Hậu
quả là trong vài năm, các giáo huấn, các tiêu chuẩn luân lý và lối sống vốn được
giữ gìn một cách trung thành từ trước đến nay đã bị lung lay, ngay cả trong số
các Kitô hữu. Ngày nay có nhiều người, khi chạm trán với các ý kiến rộng rãi đối
nghịch với giáo huấn mà họ đón nhận từ Giáo Hội Công giáo, đã đi đến chỗ tự hỏi
điều gì vẫn phải giữ lại như là chân thật.
II
Giáo
Hội không thể dửng dưng trước sự lẫn lộn này của đầu óc và sự thả lỏng của luân
lý. Thật vậy, đây là vấn nạn của một vấn đề quan trọng nhất cả cho đời sống cá
nhân của các Kitô hữu và cũng như cho đời sống xã hội của thời đại chúng ta.
[1]
Có
sự dẫn đưa các giám mục ngày ngày lưu tâm đến các khó khăn đang lớn dần mà các
tín hữu gặp phải trong việc đạt đến hiểu biết toàn bộ giáo huấn luân lý, đặc biệt
là trong các vấn đề tính dục, và các khó khăn ngày càng lớn mà các vị mục tử gặp
phải trong việc rao giảng các giáo huấn này một cách có hiệu quả. Các giám mục
biết rằng qua trách nhiệm mục tử, các vị được mời gọi để đáp ứng nhu cầu của
các tín hữu trong vấn đề rất nghiêm túc này, và các tài liệu quan trọng xử lý vấn
đề này đã được một vài giám mục hoặc Hội đồng Giám mục ban hành. Tuy nhiên do
các ý kiến sai lầm và các lệch lạc từ sai lầm đó đang tiếp tục lan rộng khắp
nơi, Bộ Giáo lý Đức Tin, với chức năng của mình trong Giáo Hội hoàn vũ [2] và với
sự ủy nhiệm của Đức Thánh Cha, thấy cần thiết ban hành Tuyên Ngôn này.
III
Người
dân thời đại chúng ta ngày càng tin rằng phẩm giá và ơn gọi con người đòi hỏi rằng
họ cần khám phá, nhờ ánh sáng của trí thông minh riêng mình, các giá trị bẩm
sinh trong bản tính của mình, và họ nên phát triển không ngừng các giá trị này
và thực hiện chúng trong đời sống của họ, nhằm đạt đến sự phát triển lớn hơn
bao giờ hết.
Trong
các vấn đề luân lý, con người không thể phán đoán giá trị theo ngẫu hứng cá
nhân, mà “Trong sâu thẳm của lương tâm, con người khám phá ra một luật mà con
người không áp đặt trên chính mình, nhưng nó buộc con người phải tuân theo… Bởi
vì con người có trong trái tim mình một luật được Thiên Chúa viết ra. Tuân theo
luật đó là chính phẩm giá con người; tùy theo đó mà con người sẽ bị phán xét.”
[3]
Hơn
nữa, qua mạc khải của Người, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, các Kitô hữu, được
biết kế hoạch cứu độ của Người, và Người đưa đến cho chúng ta Đức Kitô, Đấng Cứu
Độ và Đấng Thánh Hóa, trong giáo huấn và mẫu gương của Ngài, như là Luật tối
cao và bất biến của đời sống: “Tôi là Ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không
bước đi trong tối tăm, người ấy sẽ có ánh sáng ban sự sống.” [4]
Vì
vậy không có thể có thăng tiến đích thật phẩm giá con người trừ khi trật tự
chính yếu của bản tính con người được tôn trọng. Dĩ nhiên, trong lịch sử văn
minh nhiều điều kiện và nhu cầu cụ thể của đời sống con người đã thay đổi và sẽ
tiếp tục thay đổi. Nhưng mọi tiến hóa của luân lý và mọi lối sống phải được giữ
gìn bên trong các giới hạn được ấn định bởi các nguyên tắc không thể thay đổi,
dựa trên mọi yếu tố cấu thành con người và các tương quan chính yếu – các yếu tố
và tương quan vượt trên sự tình cờ lịch sử.
Các
nguyên tắc nền tảng này, vốn có thể được lý trí nắm bắt, được chứa đựng trong
“Luật Thiên Chúa – vĩnh cửu, khách quan và phổ quát – qua đó Thiên Chúa điều
khiển, hướng dẫn và cai quản toàn thể vũ trụ và mọi đường lối của cộng đồng
nhân loại, bởi một kế hoạch được quan niệm trong sự khôn ngoan và tình yêu. Con
người được Thiên Chúa tạo dựng để tham dự vào luật này, với hậu quả rằng, dưới
sự sắp xếp dịu dàng của Chúa Quan phòng, con người có thể đạt đến nhận thức
ngày càng lớn hơn về chân lý bất biến.” [5] Tâm trí con người có thể đạt đến hiểu
biết Luật Thiên Chúa này.
IV
Vì
thế, nhiều người ngày nay sai lầm khi khẳng định rằng con người không thể tìm
thấy, trong bản tính tự nhiên của mình hay trong luật được mạc khải, bất cứ một
qui luật nào tuyệt đối và bất biến để áp dụng cho các hành động riêng biệt,
ngoài qui luật diễn tả trong luật bác ái tổng quát và tôn trọng nhân phẩm. Như
một chứng cứ cho sự khẳng định của họ, họ đẩy mạnh quan điểm cho rằng cái gọi
là qui luật của luật tự nhiên hay các lệnh truyền của Kinh Thánh phải được nhìn
nhận là cách thức diễn tả có sẵn của một nền văn hóa nhất định tại một thời điểm
nhất định của lịch sử.
Nhưng
thật ra, Mạc khải Thiên linh, và trong trật tự riêng của nó, và sự khôn ngoan
triết học nhấn mạnh sự đòi hỏi đích thật của bản tính loài người. Thế nên,
chúng biểu hiện một cách cần thiết sự tồn tại của những luật bất biến, được ghi
khắc trong các yếu tố cấu thành bản tính loài người và được mạc khải để trở nên
đồng nhất trong tất cả các hữu thể có lý trí.
Hơn
nữa, Đức Kitô thiết lập Giáo Hội của Ngài như “cột trụ và điểm tựa của chân
lý.” [6] Với sự trợ giúp của Thánh Thần, Giáo Hội không ngừng bảo tồn và lưu
truyền không sai lầm các chân lý của trật tự luân lý, và Giáo Hội giải thích một
cách đích thật không chỉ luật mạc khải nhưng còn giải thích “các nguyên tắc của
trật tự luân lý vốn có nguồn gốc trong chính bản tính con người” [7] và quan
tâm đến sự phát triển và thánh hóa trọn vẹn của con người. Thật vậy, ngày nay
xuyên suốt lịch sử của mình, Giáo Hội đã luôn luôn xem một số lệnh truyền của
luật tự nhiên là có một giá trị tuyệt đối và bất biến, và trong sự vi phạm luật,
Giáo Hội xem đó là đối nghịch lại với giáo huấn và tinh thần của Tin Mừng.
V
Bởi
vì đạo đức tính dục liên quan đến các giá trị nền tảng của đời sống con người
và Kitô giáo, giáo huấn tổng quát này cũng áp dụng cho đạo đức tính dục. Trong
lãnh vực này có các nguyên tắc và quy luật mà Giáo Hội đã luôn không ngần ngại
truyền lại như là thành phần giáo huấn của mình, tuy nhiên nhiều ý kiến và luân
lý của thế giới xem ra đối nghịch lại chúng. Các nguyên tắc và quy luật này
không thể phát xuất từ một thể loại văn hóa nào, nhưng đúng hơn do từ sự hiểu
biết Luật Thiên Chúa và bản tính con người. Do đó chúng không thể được xem như
trở thành lỗi thời hay đáng ngờ, với cớ cho rằng một tình huống văn hóa mới đã
nảy sinh.
Chính
các nguyên tắc này gợi hứng cho các tuyên ngôn và chỉ thị của Công Đồng
Vaticanô II về giáo dục và tổ chức đời sống xã hội, chú ý đến phẩm giá bình đẳng
của người nam và người nữ, đồng thời tôn trọng sự khác biệt của hai giới. [8]
Nói
về “bản chất tính dục của con người và chức năng truyền sinh của con người,”
Công Đồng lưu ý rằng chúng “vượt quá các khuynh hướng của các lối sống thấp kém
hơn một cách tuyệt diệu.” [9] Vì thế Công Đồng chú ý riêng về việc rao giảng
các nguyên tắc và các tiêu chuẩn liên quan đến tính dục trong hôn nhân, và các
nguyên tắc này dựa trên mục đích của chức năng riêng biệt của tính dục.
Trong
quan điểm này Công Đồng tuyên bố rằng sự thiện hảo luân lý của các hành vi dành
riêng cho đời sống hôn nhân, các hành vi phải được sắp xếp theo nhân phẩm đích
thật, “chúng không phụ thuộc đơn thuần vào ý hướng chân thành hay vào sự đánh
giá các động cơ. Nó buộc phải được xác định bằng các tiêu chuẩn khách quan. Các
tiêu chuẩn này, dựa trên bản tính và hành vi của con người, bảo tồn ý nghĩa trọn
vẹn của sự tự hiến chính mình cho nhau và truyền sinh trong bối cảnh tình yêu
chân thật.” [10]
Các
lời cuối này tóm tắt ngắn gọn giáo huấn của Công Đồng – được rao giảng một cách
đầy đủ hơn trong một phần trước đó của cùng Hiến Chương [11] – về mục đích của
hành vi tình dục và về tiêu chuẩn chính yếu của tính luân lý của hành vi này:
chính sự tôn trọng mục đích bảo đảm sự thiện hảo luân lý của hành vi này.
Nguyên
tắc này, mà Giáo Hội chủ trương từ Mạc khải Thiên linh và từ sự giải thích đích
thật của Giáo Hội về Luật Tự Nhiên, cũng là nền tảng của giáo lý truyền thống,
vốn nói rằng sự sử dụng chức năng tính dục có ý nghĩa chân thật và sự ngay
chính luân lý chỉ có trong hôn nhân chân thật. [12]
VI
Tuyên
Ngôn này không có mục đích là xử lý tất cả các vấn đề lạm dụng của chức năng
tính dục, và không xử lý tất cả các yếu tố liên quan đến thực hành đức khiết tịnh.
Đối tượng của Tuyên ngôn này đúng hơn là lập lại giáo lý của Giáo Hội về một số
điểm đặc biệt, trong nhu cầu cấp bách là chống lại các sai lầm nghiêm trọng và
các lối cư xử lệch lạc lan rộng.
VII
Ngày
nay có nhiều người bào chữa quyền kết hợp thân xác trước hôn nhân, ít nhất là
trong các trường hợp có ý hướng vững chắc đi đến hôn nhân, và một tình yêu sẵn
sàng cho cuộc sống hôn nhân trong tâm lý của hai người đòi hỏi sự kết hợp này,
vốn được họ xem là hợp tự nhiên. Đây đặc biệt là trường hợp khi việc cử hành
hôn phối bị ngăn trở bởi hoàn cảnh hay là khi tương quan mật thiết này dường
như cần thiết để duy trì tình yêu.
Ý
kiến này trái ngược với giáo lý Kitô giáo, vốn dạy rằng mọi hành vi tình dục phải
nằm trong khuôn khổ hôn nhân. Dù ý hướng đi đến hôn nhân có vững chắc đến thế
nào của các người thực hiện quan hệ thân xác chưa chín muồi như thế, sự kiện tồn
tại là các quan hệ xác thịt này không thể bảo đảm, trong sự chân thành và chung
thủy, mối tương quan liên vị giữa người nam và người nữ, chúng cũng không thể bảo
vệ cho tương quan của họ khỏi thay đổi thất thường. Chính là sự kết hợp vững bền
mà Đức Giêsu đã muốn, và Ngài đã phục hồi đòi hỏi nguyên thủy của nó, bắt đầu với
sự khác biệt tính dục. “Các ông không đọc thấy rằng thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa
đã dựng nên con người là nam, là nữ và Người đã phán: vì thế người nam sẽ lìa bỏ
cha mẹ để gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ nên một thân xác? Vì thế, những gì
Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.” [13] Thánh Phaolô nói rõ
ràng hơn khi ngài cho thấy nếu các người chưa lập gia đình hoặc góa bụa không
thể sống khiết tịnh, họ không có chọn lựa nào khác hơn là sự kết hợp vững bền
trong hôn nhân: “…thà lập gia đình hơn là bị thiêu cháy bởi dục vọng.” [14] Thật
vậy, qua hôn nhân, tình yêu của vợ chồng được biến đổi thành tình yêu mà Đức
Kitô dành cho Giáo Hội Ngài một cách bền vững, [15] trong khi sự kết hợp tình dục
tan rã [16] làm ô danh đền thờ của Chúa Thánh Thần nơi mỗi người Kitô hữu. Vì vậy
sự kết hợp tình dục chỉ hợp pháp nếu một cộng đoàn đời sống bền vững đã được
thiết lập giữa người nam và người nữ.
Đây
chính là điều mà Giáo Hội luôn hiểu và giảng dạy, [17] và Giáo Hội tìm thấy một
sự nhất trí sâu xa với giáo lý của mình trong suy tư loài người và trong các
bài học của lịch sử.
Kinh
nghiệm dạy chúng ta rằng tình yêu phải tìm thấy sự bảo đảm trong tính ổn định của
hôn nhân, nếu kết hợp thân xác là thật sự đáp ứng lại các đòi hỏi của mục tiêu
của sự kết hợp thân xác và đòi hỏi của nhân phẩm. Những đòi hỏi này cần một hợp
đồng hôn nhân được cho phép và được bảo đảm bởi xã hội – một hợp đồng thiết lập
một thể chế đời sống có tầm quan trọng lớn, cả cho sự kết hợp chuyên thuộc giữa
người nam và người nữ, và cho thiện ích của gia đình họ và của cộng đồng nhân
loại. Thật vậy, thông thường nhất, các quan hệ tiền hôn nhân loại trừ khả năng
sinh con cái. Điều tiêu biểu cho tình yêu phối ngẫu là không thể được, như nó
tuyệt đối phải là, để phát triển thành tình yêu phụ tử và mẫu tử. Hay nếu điều
đó có xảy ra, cũng là thiệt hại cho con cái, là các người bị tước đoạt khỏi môi
trường ổn định mà lẽ ra chúng phải phát triển, để có thể tìm thấy con đường và
phương tiện cho sự hội nhập của chúng vào xã hội.
Sự
ưng thuận của các người ao ước được kết hợp trong hôn nhân do đó buộc phải được
thể hiện ra bên ngoài, và theo thể thức làm cho sự ưng thuận có hiệu lực trong
xã hội. Đối với các giáo dân, sự ưng thuận của họ để thiết lập một cộng đoàn đời
sống phối ngẫu phải được diễn tả theo luật Giáo Hội. Chính sự ưng thuận làm cho
hôn nhân của họ trở thành một bí tích của Đức Kitô.
VIII
Thời
nay có nhiều người dựa trên các quan sát về trật tự tâm lý đã bắt đầu phán đoán
một cách nhượng bộ, thậm chí xem như hoàn toàn không có lỗi, quan hệ đồng tính
luyến ái giữa một số người. Điều họ làm này trái ngược với giáo huấn khẳng định
của Huấn Quyền và với cảm thức luân lý của Kitô hữu.
Dường
như với vài lý do, người ta phân biệt giữa các người đồng tính mà khuynh hướng
đó đến do một sự giáo dục sai lầm, do thiếu sự phát triển tính dục bình thường,
do thói quen, do gương xấu, hoặc do các nguyên nhân tương tự khác, và khuynh hướng
này tạm thời, hoặc ít nhất không phải không chữa được; với các người đồng tính
một cách vững bền do bởi bản năng bẩm sinh nào đó hay là do tình trạng bệnh lý
xét là không chữa trị được.
Về
các đối tượng thuộc phạm trù thứ hai này, một số người kết luận rằng khuynh hướng
của họ rất tự nhiên đến mức nó biện minh trong trường hợp của họ, các quan hệ đồng
tính với sự hiệp thông đời sống và tình yêu chân thành tương đồng với hôn nhân,
trong chừng mực các người đồng tính này cảm thấy không thể chịu đựng đời sống
cô độc.
Trên
phương diện mục vụ, các người đồng tính này phải được đối xử với sự hiểu biết
và nâng đỡ trong niềm hy vọng vượt qua được các khó khăn cá nhân và sự không có
khả năng thích nghi trong xã hội. Lỗi phạm của họ phải được phán đoán với sự thận
trọng. Nhưng không có một phương pháp mục vụ nào có thể được sử dụng để biện
minh luân lý cho các hành động này, dựa trên cơ sở rằng các hành động đó phù hợp
tương ứng với tình trạng của các người như thế. Bởi vì theo trật tự luân lý
khách quan, các quan hệ đồng tính là các hành động thiếu một mục tiêu chính yếu
và không thể thay thế được. Trong Kinh Thánh, các hành động này bị kết án như một
sa đọa nghiêm trọng và ngay cả bị xem như một hậu quả đáng buồn của việc chối bỏ
Thiên Chúa. [18] Sự phán đoán này của Kinh Thánh dĩ nhiên không cho phép chúng
ta kết luận rằng tất cả những ai hứng chịu sự bất thường này là phải chịu trách
nhiệm cá nhân cho điều đó, nhưng nó chứng thực rằng các hành vi đồng tính luyến
ái là một rối loạn tự nội tại và không trường hợp nào có thể được chấp nhận.
IX
Giáo
lý truyền thống Công Giáo cho rằng thủ dâm tạo nên một rối loạn luân lý nghiêm
trọng ngày nay thường bị xem là đáng ngờ hay bị chối bỏ rõ ràng. Người ta nói rằng
tâm lý học và xã hội học cho thấy rằng thủ dâm là một hiện tượng bình thường của
sự phát triển tính dục, đặc biệt nơi người trẻ. Người ta nói rằng thủ dâm có lỗi
thật sự và nghiêm trọng chỉ khi người đó cố tình tìm vui thú đơn độc đóng kín với
chính mình, bởi vì trong trường hợp này hành vi thật sự là đối kháng tận căn với
sự hiệp thông yêu thương giữa các người khác phái, là điều mà một số người cho
rằng được nhắm đến chủ yếu trong việc sử dụng năng lực tình dục.
Ý
kiến này trái ngược với giáo huấn và thực hành mục vụ của Giáo Hội Công Giáo. Bất
kỳ sức mạnh nào của một số lý luận về bản chất sinh học và triết học, mà thỉnh
thoảng được các nhà thần học sử dụng, thì cả Huấn Quyền – trong dòng truyền thống
liên tục – và cảm thức luân lý của các tín hữu đều tuyên bố không chút ngần ngại
rằng thủ dâm là một hành vi rối loạn tự nội tại và nghiêm trọng. [19] Lý do
chính yếu là, với bất kỳ động cơ nào để hành động như vậy, sự sử dụng có chủ ý
chức năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường là đối nghịch một cách
chính yếu với mục đích của chức năng tình dục. Bởi vì nó thiếu mối tương quan
tính dục mà trật tự luân lý đòi phải thực hiện, cụ thể là tương quan thực hiện
“ý nghĩa trọn vẹn của việc tự hiến cho nhau và sự truyền sinh trong bối cảnh
tình yêu chân thật.” [20] Tất cả các thực hành tính dục có chủ ý đều phải dành
cho mối tương quan thông thường này. Ngay cả khi không thể chứng minh rằng Kinh
Thánh kết án tội này, truyền thống Giáo Hội đã hiểu một cách đúng đắn nó bị kết
án trong Tân Ước khi Tân Ước nói đến sự “không trong sạch,” “không khiết tịnh”
và các tội khác chống lại đức khiết tịnh và sự tiết dục.
Các
nghiên cứu xã hội học có thể cho thấy tần số của rối loạn này thay đổi tùy theo
nơi chốn, quần chúng và hoàn cảnh được nghiên cứu. Theo cách này, các sự kiện
được khám phá, nhưng sự kiện không tạo thành tiêu chuẩn để phê phán giá trị
luân lý của hành vi con người. [21] Tần số của hiện tượng thủ dâm chắc chắn
liên kết với sự yếu đuối cố hữu của con người sau tội nguyên tổ; nhưng nó cũng
liên kết với sự đánh mất ý thức về Thiên Chúa, với sự sa đọa luân lý gây ra do
việc thương mại hóa sự trụy lạc, với sự phóng túng không kìm hãm của quá nhiều
cách giải trí và sách báo, cũng như sự lãng quên đức khiêm nhu, vốn là một bảo
đảm cho đức khiết tịnh.
Về
đề tài thủ dâm, tâm lý học hiện đại cung cấp nhiều thông tin giá trị và hữu ích
cho việc hình thành một phán đoán quân bình hơn về trách nhiệm luân lý và cho
việc định hướng hành xử mục vụ. Tâm lý học giúp người ta thấy tính chưa trưởng
thành của thiếu niên như thế nào (điều này đôi khi có thể kéo dài sau lứa tuổi
đó), sự mất quân bình tâm lý hay thói quen có thể ảnh hưởng đến hành vi cư xử,
làm giảm nhẹ đặc tính cố ý của hành động và tạo ra tình huống trong đó một cách
chủ quan thì đó có thể không luôn luôn là một lỗi nghiêm trọng. Nhưng nói
chung, sự thiếu vắng trách nhiệm nghiêm trọng không được giả định; vì điều này
có thể gây hiểu lầm về khả năng luân lý của con người.
Trong
công tác mục vụ, để có thể hình thành một phán đoán đầy đủ trong các trường hợp
cụ thể, hành vi quen thuộc của con người sẽ được xem xét trong tổng thể của nó,
không chỉ nhìn đến thực hành đức ái và công bình của cá nhân, mà còn phải nhìn
đến sự quan tâm của cá nhân trong việc tuân giữ các qui luật riêng của đức khiết
tịnh. Cách riêng, người ta sẽ phải xét xem cá nhân có đang vận dụng các phương
tiện cần thiết, cả tự nhiên và siêu nhiên, mà sự khổ chế Kitô giáo từ kinh nghiệm
lâu đời khuyên nhủ, để khắc phục các đam mê và tiến bộ trong nhân đức.
X
Việc
tuân giữ luật luân lý trong lãnh vực tính dục và thực hành khiết tịnh đang bị
gây nguy hiểm một cách đáng kể, đặc biệt là nơi các Kitô hữu ít đạo đức, do bởi
khuynh hướng hiện thời là làm giảm thiểu nó càng nhỏ càng tốt, khi không thể chối
bỏ thẳng thắn, thực tại của tội trọng, ít nhất là trong đời sống thực tế của
con người.
Có
những người đi xa đến mức khẳng định rằng tội trọng, tội gây ra sự tách rời khỏi
Thiên Chúa, chỉ có khi một cách trực tiếp cố tình chống đối lại lời mời gọi của
Thiên Chúa, hay trong sự ích kỷ đóng lại chính mình đối với tình yêu tha nhân một
cách hoàn toàn và cố ý. Họ nói rằng có tội trọng, chỉ khi chạm đến sự chọn lựa
nền tảng, đó là khi quyết định đó làm cho con người hoàn toàn dấn thân, và nó
là cần thiết để tội trọng xảy ra; bằng chọn lựa này, con người, từ thẳm sâu của
nhân vị, chọn lấy hoặc xác nhận thái độ nền tảng đối với Thiên Chúa hay đối với
con người. Ngược lại, các hành động mà họ gọi là “ngoại vi” (người ta nói đó
thường là không liên quan đến sự chọn lựa mang tính quyết định) không đến mức
thay đổi sự chọn lựa nền tảng, vì thường thấy rằng chúng xảy ra do thói quen.
Vì vậy các hành động đó có thể làm yếu đi chọn lựa nền tảng, nhưng không đến mức
độ thay đổi nó hoàn toàn. Theo các tác giả này, một thay đổi chọn lựa nền tảng
đối với Thiên Chúa ít dễ dàng xảy trong lãnh vực hoạt động tính dục, phạm vi mà
nói chung một người vi phạm trật tự luân lý không theo một cách thức hoàn toàn
cố tình và mang tính trách nhiệm, cho bằng dưới ảnh hưởng của đam mê, yếu đuối,
chưa trưởng thành, thậm chí đôi khi do ảo tưởng về tình yêu biểu lộ cho một ai
đó. Cùng với các nguyên nhân này, thường có thêm áp lực của môi trường xã hội.
Trong
thực tế, chính sự chọn lựa nền tảng là phương sách cuối cùng để định rõ khuynh
hướng luân lý của một người. Nhưng sự chọn lựa nền tảng có thể hoàn toàn thay đổi
bởi các hành động riêng biệt, đặc biệt khi mà, như đã thông thường xảy ra, các
hành động này đã được chuẩn bị bởi các hành động hời hợt hơn trước đó. Bất kỳ
trường hợp nào, đó là sai khi nói rằng các hành động riêng biệt không đủ để tạo
thành tội trọng.
Theo
giáo huấn của Giáo Hội, tội trọng, đối nghịch với Thiên Chúa, không chỉ bao gồm
sự đối kháng cố tình và trực tiếp với điều răn đức ái. Tội trọng cũng có thể thấy
trong sự đối kháng với tình thương đích thật, điều này xảy ra trong mọi cố tình
vi phạm, vấn đề nghiêm trọng, của mỗi luật luân lý.
Chính
Đức Kitô đã chỉ ra điều răn kép của tình yêu như là cơ bản của đời sống luân
lý. Nhưng “toàn bộ Luật, cũng như các Ngôn Sứ” phụ thuộc vào điều răn này. [22]
Vì vậy nó bao gồm các qui luật riêng biệt khác. Thật vậy, với người thanh niên
đã hỏi, “…tôi phải làm điều tốt gì để được sự sống đời đời?” Đức Giêsu trả lời:
“… nếu anh muốn vào cõi sống, hãy giữ các điều răn… Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng
gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính
mình.” [23]
Vì
thế một người phạm tội trọng không chỉ khi hành vi của người đó xảy ra do sự
xúc phạm trực tiếp đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, nhưng còn khi
người ấy một cách ý thức và tự do, vì bất cứ lý do gì, chọn lựa một điều nào rối
loạn nghiêm trọng. Vì trong sự chọn lựa này, như đã nói ở trên, đã bao gồm sự
coi thường điều răn Thiên Chúa: con người quay mình rời khỏi Thiên Chúa và đánh
mất đức ái. Nay theo truyền thống Kitô giáo và giáo huấn của Giáo Hội, và như
lý trí đúng đắn cũng nhìn nhận, trật tự luân lý của tính dục liên quan đến các
giá trị cao cả của đời sống con người đến nỗi mọi vi phạm trực tiếp đến trật tự
này đều là nghiêm trọng một cách khách quan. [24]
Đúng
là trong các tội về trật tự tính dục, trong cái nhìn về thể loại và nguyên nhân
của chúng, thường dễ dàng xảy ra là sự đồng thuận tự do lại không hoàn toàn;
đây là một sự kiện đòi cần phải thận trọng trong mọi nhận định như về trách nhiệm
của chủ thể. Trong vấn đề này, thật thích hợp cách riêng để nhắc lại các lời
sau đây của Kinh Thánh: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy
tận đáy lòng.” [25] Tuy nhiên, mặc dù cần thận trọng khi phán đoán tính nghiêm
trọng chủ quan của một hành động tội lỗi riêng biệt, người ta không cách nào có
thể cho rằng trong lãnh vực tính dục, không xảy ra tội trọng.
Các
mục tử của linh hồn vì vậy phải thực hành đức kiên nhẫn và tính tốt lành; nhưng
các vị không được phép làm cho điều răn của Thiên Chúa hóa ra không, cũng không
thể giảm thiểu một cách vô lý tính trách nhiệm của người ta. “Giảm thiểu giáo
huấn cứu độ của Đức Kitô không thể nào tạo nên một hình thức cao độ của đức ái
cho các linh hồn. Nhưng cần phải kiên nhẫn và lòng lành, như chính Đức Chúa đã
nêu gương khi đối xử với dân chúng. Đến thế gian không phải để kết án nhưng để
cứu độ, Ngài quả thật không khoan nhượng với tội lỗi, nhưng thương xót đối với
con người.” [26]
XI
Như
đã nói ở trên, mục đích của Tuyên Ngôn này là muốn các tín hữu trong các hoàn cảnh
ngày nay chú ý vào một số sai sót và lối cư xử mà họ phải chống lại. Tuy nhiên,
nhân đức khiết tịnh không thể nào chỉ gói gọn vào việc tránh các lỗi phạm đã liệt
kê. Nhân đức khiết tịnh nhắm đạt đến các mục tiêu cao hơn và tích cực hơn. Đó
là một nhân đức liên quan đến toàn thể nhân cách, cả về nội tâm và hành vi bên
ngoài.
Các
cá nhân nên có được nhân đức này tùy theo bậc sống: đối với một số người đó
nghĩa là trinh khiết hay độc thân thánh hiến cho Thiên Chúa, vốn là một lối sống
dễ dàng tận hiến cho một mình Thiên Chúa với một trái tim không chia sẻ. [27] Đối
với một số người khác, khiết tịnh sẽ mang hình thức xác định bởi luật luân lý,
tùy theo họ kết hôn hay độc thân. Nhưng trong bất cứ bậc sống nào, đức khiết tịnh
không đơn giản là một trạng thái bên ngoài; mà nó phải làm cho trái tim con người
trong sạch hòa hợp với những lời của Đức Kitô: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ
ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ và thèm muốn,
thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” [28]
Đức
khiết tịnh bao hàm trong sự tiết dục mà Thánh Phaolô kể ra trong số các ân sủng
của Chúa Thánh Thần, khi ngài kết án khoái lạc nhục dục như một điều xấu cách
riêng không xứng đáng với Kitô hữu, và khiết tịnh là hành động mở đầu việc bước
vào Nước Trời. [29] “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh
gian dâm, mỗi người trong anh em hãy biết sử dụng thân xác thuộc về anh em theo
cách thức thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo dục vọng ích kỷ
như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa. Đừng ai làm tổn thương hay
lừa dối người anh em mình… Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế,
nhưng sống thánh thiện. Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải
khinh thường uy quyền người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa, Đấng hằng ban
cho anh em Thánh Thần của Người.” [30] “Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham
lam, anh em phải tránh chúng dưới mọi hình thức, như thế mới xứng đáng là những
người trong dân thánh… Anh em phải biết rõ điều này: không một kẻ gian dâm, ô uế
hay tham lam nào- mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng- được thừa hưởng cơ nghiệp
trong Nước của Thiên Chúa. Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em,
chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ
không vâng phục. Vậy anh em đừng thông đồng với họ. Xưa anh em là bóng tối,
nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng; vậy anh em hãy ăn ở như con
cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và
chân thật.” [31]
Thêm
nữa, thánh Tông Đồ chỉ ra động cơ Kitô giáo đặc biệt cho việc thực hành đức khiết
tịnh, khi ngài kết án tội tà dâm không chỉ vì hành vi này gây tổn thương cho
tha nhân hay cho trật tự xã hội, nhưng bởi vì người tà dâm chống lại Đức Kitô Đấng
đã cứu chuộc người ấy bằng chính Bửu Huyết của Ngài, và người ấy là phần thân
thể của Ngài, và người ấy chống lại Thánh Thần mà chính người ấy là Đền Thờ.
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao…Mọi
tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính
thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của
Thánh Thần sao. Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên
Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân
xác anh em.” [32]
Người
tín hữu càng đánh giá cao giá trị của đức khiết tịnh và vai trò cần thiết của
nó trong đời sống của họ với tư cách vợ chồng, thì họ sẽ càng hiểu hơn, nhờ bởi
một loại bản năng thiêng liêng, các đòi hỏi và lời khuyên luân lý của đức khiết
tịnh. Cũng như thế, người tín hữu sẽ hiểu biết tốt hơn làm thế nào để chấp nhận
và thực hiện, trong một tinh thần ngoan ngoãn dễ dạy đối với giáo huấn của Giáo
Hội, những gì mà một lương tâm ngay thẳng ra lệnh trong các trường hợp cụ thể.
XII
Thánh
Phaolô Tông đồ mô tả bằng những từ ngữ sống động sự xung đột nội tâm đau đớn của
con người bị nô lệ cho tội lỗi: cuộc xung đột giữa “luật của lý trí” và “luật của
tội vẫn nằm sẵn trong các chi thể của người đó” và giam hãm người đó. [33]
Nhưng con người có thể được giải thoát khỏi “thân xác phải chết” nhờ ân sủng của
Đức Giêsu Kitô. [34] Ân sủng này được đón nhận bởi những ai đã được bàu chữa nhờ
ân sủng này, và những ai được “luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Giêsu
Kitô đã giải thoát khỏi luật của tội và sự chết.” [35] Chính vì lý do này mà
Thánh Tông Đồ cổ vũ họ: “Chính vì vậy anh em hãy đừng để cho tội lỗi thống trị
thân xác phải chết của anh em nữa, đừng để cho tội lỗi sai khiến anh em nghe
theo những dục vọng của thân xác.” [36]
Sự
giải thoát này, chuẩn bị cho con người phục vụ Thiên Chúa trong sự mới mẻ của đời
sống, tuy nhiên không đè nén sự ham muốn nhục dục phát sinh từ tội nguyên tổ,
cũng không thúc giục sự xấu trong thế gian, nơi “nằm dưới ách thống trị của Ác
thần.” [37] Đây là lý do tại sao Thánh Tông Đồ cổ vũ tín hữu vượt qua các cám dỗ
bằng quyền lực của Thiên Chúa [38] và để “đứng vững trước những mưu chước của
ma quỷ” [39] bằng đức tin, tỉnh thức cầu nguyện [40] và sự khổ chế của đời sống
giúp thân xác phục tùng Thần Khí. [41]
Sống
đời sống Kitô hữu bằng cách theo bước Đức Kitô đòi hỏi mọi người phải “từ bỏ
chính mình và vác thập giá mình hằng ngày,” [42] được nâng đỡ bởi niềm hy vọng
được thưởng công vì “nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng hiển trị với Người.”
[43] Hòa hợp với các lời cổ vũ thúc bách này, tín hữu thời nay, và thật vậy,
ngày nay hơn bao giờ hết, phải sử dụng các phương thế mà Giáo Hội đã luôn
khuyên bảo, để sống đời sống khiết tịnh. Các phương thế này là: kỷ luật của
giác quan và tâm trí, tỉnh thức và thận trọng tránh dịp tội, tuân giữ đức khiêm
tốn giản dị, điều độ trong giải trí, nghề nghiệp lành mạnh, chuyên cần cầu nguyện,
và thường xuyên đón nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Người trẻ một cách đặc
biệt nên nhiệt tình thúc đẩy sự dâng hiến cho Mẹ Thiên Chúa Đấng Vô Nhiễm
Nguyên Tội, và noi gương đời sống của các Thánh, của cả những tín hữu khác,
cách riêng những người trẻ, những ai thực hành nhân đức khiết tịnh.
Quan
trọng cách riêng là mọi người nên đánh giá cao nhân đức khiết tịnh, vẻ đẹp và sức
mạnh hấp dẫn của nhân đức này. Nhân đức này làm gia tăng phẩm giá con người và
làm cho con người có khả năng yêu mến thật sự, vô vị lợi, không ích kỷ và lòng
tôn trọng người khác.
XIII
Các
giám mục cần thực hiện việc giáo dục các tín hữu về các giáo huấn luân lý liên
quan đến luân lý tính dục, tuy nhiên các khó khăn có thể lớn lao trong việc thực
hiện nhiệm vụ này khi phải đối đầu với các tư tưởng và thực hành nói chung đang
thắng thế ngày nay. Giáo lý truyền thống này phải được nghiên cứu một cách sâu
xa hơn. Giáo huấn này phải được truyền thụ theo một cách thức có thể soi sáng
thích đáng lương tâm của những ai đang phải đương đầu với các tình huống mới mẻ,
và nó phải được làm phong phú thêm với sự nhận định tất cả các yếu tố có thể
giúp mang lại ý nghĩa và giá trị của tính dục con người một cách đích thật và hữu
ích. Nhưng các nguyên tắc và quy luật của đời sống luân lý mà Tuyên Ngôn này
tái khẳng định, phải được gìn giữ và giảng dạy một cách trung thành. Việc giảng
dạy sẽ đặc biệt cần thiết để giúp tín hữu hiểu được rằng Giáo Hội gìn giữ các
nguyên tắc này không phải như là sự mê tín cũ xưa và bất khả xâm phạm, cũng
không phải do một loại thành kiến kiểu phái Manichaen, như nó thường bị cho là
như thế, nhưng đúng hơn là, bởi vì Giáo Hội xác tín rằng những nguyên tắc và
quy luật này hoàn toàn hòa hợp với trật tự tạo dựng của Thiên Chúa và với tinh
thần của Đức Kitô, và do đó cũng hòa hợp với phẩm giá con người.
Cũng
vậy, sứ vụ của các giám mục là phải thấy rằng một giáo lý đích thật được soi
sáng bởi đức tin và được hướng dẫn bởi Huấn Quyền của Giáo Hội phải được giảng
dạy trong các phân khoa thần học và trong các đại chủng viện. Các giám mục cũng
phải bảo đảm rằng các vị giải tội soi sáng lương tâm của dân chúng và sự giảng
dạy giáo lý phải hoàn toàn trung thành với giáo lý Công Giáo.
Các
giám mục, linh mục và các cộng tác viên phải cảnh giác các tín hữu chống lại
các ý kiến sai lạc thường được trình bày trong các sách báo và các cuộc hội họp
quần chúng.
Trước
hết là cha mẹ, cũng như các thầy cô giáo của các người trẻ phải nhiệt tình dẫn
dắt con cái và học trò của họ, bằng con đường của một sự giáo dục toàn diện, để
có được sự trưởng thành tâm lý, xúc cảm và luân lý thích hợp với lứa tuổi của
chúng. Cha mẹ và thầy cô giáo vì thế sẽ một cách thận trọng cung cấp cho chúng
các thông tin thích hợp với lứa tuổi; và huấn luyện cho người trẻ ý hướng phù hợp
với luân lý Kitô giáo, không chỉ bằng lời khuyên răn mà trên hết bằng chính mẫu
gương đời sống của cha mẹ và các vị thầy cô, cậy dựa vào sự trợ giúp của Thiên
Chúa qua lời cầu nguyện. Cũng thế, cha mẹ và giáo viên bảo vệ người trẻ khỏi
nhiều nguy hiểm mà chúng thật không ý thức.
Các
nghệ sĩ, văn sĩ, và tất cả những ai sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội
nên thực hành nghề nghiệp của họ phù hợp với đức tin Kitô giáo và với sự ý thức
rõ ràng về sức ảnh hưởng to lớn mà họ có thể có được. Họ nên nhớ rằng “tính ưu
tiên của trật tự luân lý khách quan phải được xem như là tuyệt đối bởi tất cả mọi
người,” [44] và là sai trái khi họ dành ưu tiên vượt trên trật tự đó cho cái gọi
là mục đích thẩm mỹ, hay thuận lợi vật chất, hay sự thành công. Dù là vấn đề của
công trình nghệ thuật hay văn chương, giải trí công cộng hay cung cấp thông
tin, mỗi cá nhân trong lãnh vực riêng của mình phải biểu lộ sự lịch thiệp, kín
đáo, trung dung và một ý nghĩa thật sự của các giá trị. Với cách thức này,
không thêm vào sự dễ dãi về hành vi đang tăng dần, mỗi cá nhân sẽ đóng góp
trong việc kiểm soát hành vi và ngay cả tạo ra bầu khí luân lý của xã hội lành
mạnh hơn.
Về
phần mình, tất cả giáo dân, do quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong công cuộc
tông đồ, nên hăng hái hành động theo cùng một cách thức.
Cuối
cùng, cần nhắc nhở mọi người lời của Công Đồng Vaticanô II: “Công Đồng thánh
thiện này cũng khẳng định rằng trẻ em và những người trẻ có quyền được khuyến
khích để cân nhắc các giá trị luân lý với một lương tâm ngay thẳng, và theo đuổi
chúng bằng chọn lựa cá nhân, để hiểu biết và yêu thương một cách đầy đủ hơn. Vì
vậy Công Đồng khẩn nài tha thiết tất cả những ai thực thi việc điều hành dân
chúng hay chỉ đạo công việc giáo dục phải thấy rằng giới trẻ không bao giờ có
thể bị lấy đi quyền thánh thiêng này.” [45]
Trong
cuộc tiếp kiến Hồng Y Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin ngày 7/1/1975,
Đức
Thánh Cha Phaolô VI đã chuẩn y Tuyên Ngôn
“Về
một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” này,
khẳng
định và ra lệnh ban hành Tuyên Ngôn.
Ban
hành tại Rôma, tại Bộ Giáo lý Đức Tin, ngày 29/12/1975
Hồng
Y Franjo Seper
Bộ
trưởng
TGM
Jerome Hamer, O.P.
Tổng
giám mục Hiệu tòa Lorium
Thư
ký
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1]
Xem Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới
hiện đại, Gaudium et Spes, 47.
[2]
Xem Tông hiến “Regimini Ecclesiae Universae,”
29 (ngày 15/8/1967).
[3]
Hiến chế “Gaudium et Spes,” 16.
[4]
Ga 8, 12.
[5]
Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn “Dignitatis Humanae,” 3.
[6]
1Tm 3, 15
[7]
“Dignitatis Humanae,” 14; xem Đức Giáo Hoàng Piô XI, Thông Điệp “Casti
Connubii,” (31/12/ 1930); Đức Giáo Hoàng Piô XII, allocution of 2/11/1954; Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII, Thông Điệp “Mater et Magistra,” 15/5/ 1961; Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI, Thông Điệp “Humanae Vitae,” 4, (25/7/1968).
[8]
Xem Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn “Gravissimum Educationis,” 1,
8; “Gaudium et Spes,” 29, 60, 67.
[9]
Hiến chế “Gaudium et Spes,” 51.
[10]
Ibid; x. 49.
[11]
Ibid, 49, 50.
[12]
Tuyên ngôn này không đi sâu vào chi tiết về các qui định của đời sống tính dục
trong hôn nhân, vì các qui định này đã được dạy rõ trong tông thư “Casti
Connubii” và “Humanae Vitae.”
[13]
Xem Mt 19, 4-6.
[14]
1 Cr 7, 9.
[15]
Xem Ep 5, 25-32.
[16]
Giao hợp ngoài hôn nhân bị chính thức lên án trong 1 Cr 5, 1; 6, 9; 7:2; 10, 8
Ep. 5, 5; 1 Tm 1, 10; Dt 13, 4; và với các lý do minh nhiên 1 Cr 6, 12-20.
[17]
Xem Innocent IV, thư “Sub catholica professione,” ngày 6/3/1254; Đức Giáo Hoàng
Piô II, “Propos damn in Ep Cum sicut accepimus” ngày 13/11/1459; các sắc kệnh của
Tòa Thánh, ngày 24/9/1665; ngày 2/3/1679; Đức Giáo Hoàng Piô XI, tông thư
“Casti Connubii,” ngày 31/12/1930.
[18]
Rm 1, 24-27 “Vì thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những
điều ô uế, khiến thân thể họ ra hư hèn. Thay vì Thiên Chúa thật, họ đã theo những
thần giả; họ đã tôn thờ những loài thọ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hoá. Chúc tụng
Người đến muôn thuở muôn đời. A-men. Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông
theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều
trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà
lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc
vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình”. Cũng xem những gì thánh
Phaolô nói về “masculorum concubitores” trong 1 Cr 6, 10; 1Tm 1, 10.
[19]
Xem Đức Giáo Hoàng Leo IX, Thư “Ad splendidum nitentis,” vào năm 1054, sắc lệnh
của Tòa Thánh, ngày 2/3/ 1679; Đức Giáo Hoàng Piô XII, “Allocutio,” ngày
8/10/1953; ngày 19/5/1956.
[20]
Hiến chế “Gaudium et Spes,” 51.
[21]
“. . .Các thăm dò xã hội học là cần thiết để khám phá tốt hơn các đặc điểm tư
tưởng của con người ở một vị trí đặc biệt, các lo âu và nhu cầu của những người
mà chúng ta rao truyền Lời Chúa cho họ, và sự chống đối với điều này bởi lý luận
hiện nay, thông qua khái niệm phổ biến cho rằng ngoài khoa học không có hình thức
hiểu biết hợp pháp nào nữa, tuy nhiên các kết luận rút ra từ các thăm dò này
không thể tạo ra một tiêu chuẩn xác định cho sự thật”, Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI, tông huấn “Quinque iam anni.” 8/12/ 1970.
[22]
Mt 22, 38. 40.
[23]
Mt 19, 16-19.
[24]
Xem chú thích 17 và 19 ở trên, sắc lệnh Tòa Thánh, ngày 18/3/1666; Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI, “Humanae Vitae,” 13, 14.
[25]
1 Sm 16, 7.
[26]
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, “Humanae Vitae,” 29.
[27]
Xem I Cr 7, 7. 34; Công đồng Trentô, khóa XXIV, can. 10; Công đồng Vaticanô II,
Hiến chế “Lumen Gentium,” 42, 43, 44; Thượng hội đồng Giám mục, “De Sacerdotio
Ministeriali,” phần II, 4, b.
[28]
Mt 5, 27-28.
[29]
Xem Gl 5, 19-23; 1 Cr 6, 9-11.
[30]
1 Tx 4, 3-8; x. Cl 3, 5-7; 1Tm 1, 10.
[31]
Ep 5, 3-8; x. 4, 18-19.
[31]
1 Cr 6, 15. 18-20.
[33]
Xem Rm 7, 23.
[34]
Xem Rm 7, 24-25.
[35]
Xem Rm 8, 2.
[36]
Rm 6, 12.
[37]
1 Ga 5, 19.
[38]
Xem 1 Cr 10, 13.
[39]
Ep 6, 11.
[40]
Ep 6, 16. 18.
[41]
1 Cr 9, 27.
[42]
Lc 9, 23.
[43]
2 Tm 2, 11-12.
[44]
Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, sắc lệnh “Inter Mirifica,” 6.
[45]
“Gravissimum Educationis,” 1.
BS
Trần Như Ý-Lan chuyển dịch từ bản tiếng Anh:
PERSONA
HUMANA, DECLARATION ON CERTAIN QUESTIONS CONCERNING SEXUAL ETHICS,
Congregation
for the Doctrine of the Faith
<http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19751229_persona-humana_en.html>
Tháng
1/2011
Bộ
Giáo Lý Đức Tin
Nguồn : hdgmvietnam.org.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét