CÔNG ĐỒNG VATICAN
II - Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội -Lumen Gentium
Lời Giới Thiệu
Căn
cứ vào những vấn đề đã được trình bày, ngày nay ai cũng công nhận Hiến Chế tín
lý về Giáo Hội là then chốt của cả Công Ðồng Vaticanô II. Là vì, sau thế chiến
thứ nhất, vấn đề bản tính Giáo Hội đã trở thành trọng tâm của các cuộc tranh luận
về thần học. Quả thực các Công Ðồng trước, như lịch sử chứng minh, đã luôn cố gắng
đưa ra những giải đáp thích hợp với nhu cầu thời cuộc; nhưng vấn đề bản tính
sâu xa của Giáo Hội vẫn còn là trọng tâm cho các cuộc tranh luận và cho các quyết
định của Công Ðồng Vaticanô II.
Người
ta có thể viện dẫn nhiều lý do lịch sử, xã hội, thần học để giải thích cho sự tập
trung chủ đề ấy về Giáo Hội.
Công
Ðồng Vaticanô I, do những đòi hỏi của thời cuộc, đã khởi sự suy tư về bản tính
thần học của Giáo Hội. Tuy nhiên, chương trình quá rộng rãi và hoàn cảnh chính
trị bất lợi đã không cho phép công cuộc khẩn thiết ấy được kết thúc tốt đẹp. Bởi
vậy, những chương trình dang dở của Vaticanô I cần phải được bổ túc cấp thời, nếu
không, khoa Giáo hội học có nguy hiểm là quá thiên về một phía, tức về quyền tối
thượng của Giáo Hoàng Rôma và các quyền bính của Ngài, dễ làm phương hại đến những
giá trị khác trong Giáo Hội.
Hơn
nữa, sau thế chiến thứ nhất, một tình trạng mới đã nảy sinh, lôi kéo theo một lối
nhìn mới về Giáo Hội và một cách thức cảm nghiệm mới về những thực tại của Giáo
Hội. Ðể có lối nhìn mới đó - ngoài những yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội mà
chúng ta không muốn nhắc tới ở đây - chúng ta hãy nêu lên những động lực sau
đây thuộc khoa Giáo hội học đã gây nên một ảnh hưởng không nhỏ:
a) Phong trào Công giáo Tiến Hành hoặc
những phong trào tương tự trong giáo dân đã cổ võ một tinh thần tông
đồ mới và đồng thời làm cho họ tin tưởng cách chính đáng là họ thuộc về Giáo Hội
nhiều hơn. Sự ý thức "thuộc về" sâu xa hơn ấy tiến triển dần dần
trong cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội không được coi là một thực tại dành riêng
cho các giáo sĩ nhưng cho hết mọi người cùng sống, cùng khổ và cùng làm việc
trong đó. Như thế, khoa thần học về giáo dân được phát huy một cách đặc biệt và
sống động, nêu ra mối suy tư thần học về Giáo Hội.
b) Sự suy tư thần học này đã giúp nhiều cho lối
nhìn mới về Giáo Hội, vì đã áp dụng những tiến bộ của các khoa Thánh Kinh, lịch
sử và nhân văn. Thật vậy, thần học phô bày ý nghĩa xã hội gắn liền với chính
nhân vị. Sự liên hệ giữa đặc tính xã hội hóa đang vươn lên và ý thức mãnh liệt
về địa vị con người không thể không bày tỏ mối suy tư thần học về Giáo Hội. Do
đó mà khoa Giáo hội học ngày nay có những khía cạnh xã hội và nhân loại, huyền
nhiệm và tượng trưng dễ đối kháng với một khoa Giáo hội học nặng tính cách pháp
lý trước đây.
c) Phong trào hiệp nhất cũng ảnh hưởng đến
sự biến đổi này. Ước nguyện hiệp nhất tạo nên những cuộc đối thoại về thần học,
trong đó các vấn đề không được thảo luận đặt trong tình trạng tương phản biện
chứng với các ý kiến khác nhau. Nhờ thế mà những trực giác về bản tính Giáo Hội
nhất thiết phải phát hiện.
Những
điều đó đặt ra cho Giáo Hội hai việc cần thực hiện: làm sáng tỏ và tìm hiểu các
vấn đề của Giáo Hội trong toàn bộ. Ðã đến lúc Giáo Hội càng ngày càng phải
nghiên cứu, đào sâu và diễn tả chân lý về chính mình. Ngoài ra, ý thức về chính
mình cũng cần được xếp đặt cho có hệ thống theo tính cách năng động cổ truyền.
Cần
nói thêm rằng "trực giác minh bạch về sự kiện này là: cộng đoàn Kitô giáo
chắc chắn sẽ không theo kịp bước tiến của thế giới ngày nay và phải chịu tăng
triển chậm chạp dù đã đi tiên phong về vấn đề Giáo hội học", trực giác ấy
không thể không buộc Giáo Hội suy nghĩ về những trách vụ cấp bách của mình,
cũng như không thể không buộc Giáo Hội phải làm cho tổ chức của mình không còn
bị cô lập, sự cô lập mà Giáo Hội có thể rơi vào.
Những
điều nói trên cho ta thấy một hình ảnh khá chính xác của một khoa Giáo hội học
tiền Công Ðồng:
a)
Trước hết nó mang tính chất đối
thoại.
Ðối thoại chân thành và cởi mở với mọi thực tại thụ tạo, trong đó ý định cứu rỗi
của Thiên Chúa được hoàn tất. Giáo Hội không thể chỉ tự giải thích về bản chất
của mình, nhưng còn cần phải tự đả thông với người khác: với các Kitô hữu không
công giáo và với một thế giới thờ ơ với ơn cứu rỗi.
b)
Tuy nhiên, cuộc đối thoại - dù cần thiết - cũng không thể tự hạn chế vào việc
thông cảm đơn thuần nhằm mục đích hiểu biết. Nhưng Giáo Hội còn phải đi sâu vào
những nguyện vọng của mọi người. Giáo Hội phải hiện diện với mọi thực tại và với
những nỗ lực của mọi người để làm cho xã hội nên tốt đẹp hơn. Bởi vậy, khoa
Giáo hội học cũng mang tính chất nhập
thể vì Giáo Hội hiện diện sống động theo kiểu
Chúa Kitô, hầu có thể cứu chuộc thế giới.
c)
Muốn thế, cần phải có sự canh tân tận bên trong, phải cải tổ cơ cấu, phải mở rộng
tới những cách thức hiện hữu mới, mà không làm Giáo Hội mất sự canh tân và cải tổ. Khuynh hướng cải tổ, tuy đôi khi
đi đến tận căn và thái quá, nhưng nói chung vẫn có giới hạn chính đáng, rõ
ràng, theo câu châm ngôn cổ truyền: "Giáo Hội phải được cải tổ không ngừng".
d)
Khuynh hướng cải tổ trong khoa Giáo hội học nói lên một tính chất tiêu biểu
khác: tính chất hiệp
thông.
Giáo Hội phải là trung tâm hiệp thông nhân loại trong các hoạt động thế tục
cũng như trong các hoạt động tôn giáo. Bởi vậy, Giáo Hội như là bí tích tạo nên
sự hiệp thông ấy.
Những
đặc điểm trên của khoa Giáo hội học ngày nay được thu thập và chấp nhận trong
văn kiện mà chúng ta sẽ giải thích sau đây. Chắc hẳn, văn kiện chúng ta hiện có
không phải chỉ được soạn thảo một lần. Trong Giáo Hội vẫn còn nhiều chống đối với
lối nhìn vấn đề theo cách thức mới mẻ này: Có hai khuynh hướng xuất hiện trong
các cuộc thảo luận ở Công Ðồng: khuynh hướng thứ nhất ủng hộ quan niệm hiện tại
mới mẻ và sống động hơn về Giáo Hội mà yếu tính là như một sự hiệp thông với mầu
nhiệm đời sống Ba Ngôi; khunh hướng thứ hai coi Giáo Hội như một thể chế, một
xã hội hoàn hảo giữa lòng thế giới, có những bổn phận và quyền lợi riêng. Ðấy
chỉ là những vấn đề được nhấn mạnh vì không bên nào cho quan điểm đối lập là
sai. Chính vì đó mà giai đoạn khởi đầu của văn kiện đã trở nên rất sôi nổi, lâu
dài và đôi khi bi đát. Chúng ta sẽ cố gắng rút ra những đường nét chính từ việc
soạn thảo này.
Lược
đồ đầu tiên gồm một tập dầy 123 trang đã được gửi đến các Giám Mục vào tháng 11
năm 1962. Lược đồ gần như là một bản toát yếu các vấn đề mà trước khi họp Công
Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã hỏi ý kiến cả thế giới. Lược đồ gồm 11 chương và một
phụ trương, trong đó không thấy có những tiêu chuẩn rõ rệt. Ðây là những vấn đề
được bàn đến: về bản tính của Giáo Hội chiến đấu ở trần gian; về những phần tử
của Giáo Hội chiến đấu và về việc Giáo Hội cần cho ơn cứu rỗi; về chức Giám Mục
chính tòa; về các bậc sống theo đường lối hoàn hảo của Phúc Âm; về giáo dân; về
quyền giáo huấn của Giáo Hội; về uy quyền và sự vâng phục trong Giáo Hội; về
liên quan giữa Giáo Hội và chính quyền; về sự cần thiết của Giáo Hội để loan
báo Phúc Âm cho mọi dân tộc trên khắp mặt đất; về sự hiệp nhất. Trong phần phụ
trương còn thêm lược đồ về "Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân
loại".
Lược
đồ đầu tiên ấy được thảo luận trong kỳ họp thứ nhất (từ ngày 1 đến ngày 7 tháng
12 năm 1962 trong 6 phiên họp: phiên họp khoáng đại thứ 31 tới 36). Tất cả đồng
thanh dành ưu tiên cho đề tài về Giáo Hội nhưng cũng có đôi điều chỉ trích: lược
đồ thiếu liên kết và tổng hợp, không nêu ra những đường nét chủ chốt. Người ta
còn mong muốn một lược đồ có tầm mức mục vụ hơn. Về nội dung, nhiều Nghị Phụ nhấn
mạnh cần phải lưu ý tới những viễn tượng rộng lớn hơn của khoa thần học hiện đại,
bởi vì cái gọi là "mới", thường chỉ là một ý thức sắc bén hơn về một
chân lý đã quá xa xưa. Cần nhấn mạnh khía cạnh Giáo Hội là cộng đoàn thiêng
liêng, là hiệp thông và mầu nhiệm, hơn là khía cạnh Giáo Hội là một xã hội hoàn
hảo. Một cách tiêu cực, người ta chỉ trích lược đồ đầy vẻ phô trương thanh thế
(trình bày Giáo Hội như một thế lực đi từ chiến thắng này tơi chiến thắng
khác), quá thiên về giáo sĩ (giản lược đời sống Giáo Hội vào hoạt động của giáo
phẩm mà gạt giáo dân ra ngoài), có tính cách pháp lý (quá nhấn mạnh những yếu tố
pháp lý, vì dù có cần thiết và chính yếu thật, chúng không phải là những yếu tố
duy nhất trong Giáo Hội). Một cách tích cực, người ta muốn lược đồ đề nghị phải
trình bày một Giáo Hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, nghĩa là một tinh thần cởi
mở và phổ quát, một tinh thần truyền giáo, một tinh thần khiêm tốn và phục vụ.
Có lưu ý đến những điều đó rồi mới thấy việc sửa chữa lại lược đồ là việc làm
không thể tránh được.
Theo
sự chỉ dẫn của Công Ðồng, ủy ban thần học bắt tay vào việc trong thời gian giữa
kỳ họp nhất và kỳ họp hai. Ủy ban lưu tâm vào phần trên của lược đồ sơ khởi: phần
dưới, ủy ban chỉ giữ lại một vài đoạn và đưa lên một trong các chương trên. Văn
thể cũng được sửa lại hết. Tất cả chỉ còn lại 4 chương và được gửi tới các Nghị
Phụ vào mùa hè năm 1963. Bốn chương đó bàn về:
I.
Mầu nhiệm Giáo Hội.
II.
Cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt về chức Giám Mục.
III.
Dân Chúa, đặc biệt về giáo dân.
IV.
Lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội.
Trước
kỳ họp hai, theo sự gợi ý bằng giấy viết của nhiều Nghị Phụ, thứ tự này đã được
sửa đổi. Ủy ban chấp thuận. Và đây là thứ tự mới: các đoạn mà toàn thể có đặc
điểm về Dân Chúa đều được rút ra khỏi các chương I và III. Những yếu tố này được
đặt trong một phần khai triển mới, nằm ngay sau phần trình bày về mầu nhiệm
Giáo Hội và trước phần nói về phẩm trật. Chương III không còn đề cập đến Dân
Chúa, nhưng chỉ bàn về những phần tử của Dân Chúa trên toàn thế giới, tức là
giáo dân. Sau cùng là tu sĩ được đề cập rõ ràng trong tựa đề của chương IV.
Trong
nghị trường, các Nghị Phụ thảo luận theo cách chia sơ khởi là bốn chương. Các
thảo luận kéo dài từ ngày 30 tháng 9 đến 31 tháng 10 năm 1963. Bản trình bày mới
được tiếp nhận nồng hậu. Hầu như toàn thể các phiếu (2,301 chống với 43) đều chấp
thuận coi nó như nền tảng cho việc tranh luận. Nhưng hai khuynh hướng thần học,
như chúng ta đã nói trên, tiếp tục biện hộ cho quan điểm của mình. Phần đông
các Giám Mục hoan hỉ và hài lòng về lối trình bày tỉ mỉ và nhận định rằng toàn
bộ từ đây đã được xây dựng vững chắc hơn. Các ngài vui mừng đón nhận những ý kiến
gợi lên việc hiệp nhất và mục vụ. Các cuộc thảo luận trở nên gay go khi bàn về
Giám Mục Ðoàn (chương II). Người ta sợ Giám Mục Ðoàn sẽ phương hại tới quyền tối
thượng của Giáo Hoàng. Một cuộc bỏ phiếu để làm sáng tỏ đã được tổ chức ngày 30
tháng 10 năm1963. Kết quả là đa số nghiêng về Giám Mục Ðoàn. Tuy nhiên các cuộc
thảo luận vẫn tiếp diễn và cũng nhờ có thảo luận mà cơ ấu của lược đồ thay đổi
dần dần. Một cơ cấu mới hình thành. Chủ đề Dân Chúa làm thành chương II và tiếp
theo sau là chủ đề về Phẩm Trật. Các tu sĩ xin Công Ðồng bàn về họ trong một
chương biệt lập. Chương IV của lược đồ phân thành hai: lời kêu gọi nên thánh
(chương V) và các tu sĩ (chương VI). Sau các cuộc thảo luận khá sôi nổi và sau
một cuộc bỏ phiếu với kết quả sát nút, Công Ðồng quyết định cho xen lược đồ về
Ðức Mẹ vào Hiến Chế về Giáo Hội (Chương VIII). Sau cùng, Công Ðồng còn thêm một
chương khác (chương VII) nói về đặc tính cánh chung của Giáo Hội, về sự liên lạc
giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời. Ðó là diễn tiến của bản văn chung
quyết như chúng ta hiện có.
Theo
cách sắp xếp hiện thời, thì cứ hai chương một đi với nhau, theo một thứ tự hợp
lý, có lẽ không ngờ tới, nhưng dễ biện minh:
1)
Hai chương đầu nói về mầu
nhiệm Giáo Hội,
trước hết theo chiều hướng siêu việt, sau đó theo hình thức lịch sử. Những đặc
điểm căn bản của Giáo Hội như phương tiện cứu rỗi đều thấy xuất hiện trong suốt
cả hai chương. Cách mô tả giản dị nhưng không một ai có thể nghi ngờ về ý tưởng
phong phú của chúng.
2)
Hai chương kế tiếp mô tả cơ
cấu hệ thống của cộng đoàn được Chúa Kitô thiết lập. Các
mục tử giảng dạy, thánh hóa và cai trị. Còn giáo dân, dưới sự chỉ dẫn của các
ngài, tham gia vào một công trình cứu độ: đó là hai mặt của một bức hình: một mặt
là chương III nói về Phẩm Trật và mặt kia là chương IV, về Giáo Dân.
3)
Sau đó, lược đồ chú ý tới sứ
mệnh cốt yếu của Giáo Hội tức là việc thánh hóa mọi phần
tử trong Dân Chúa. Ðời sống tu trì gắn liền với mục đích ấy và đó là lý do khiến
Giáo Hội coi nó là quan trọng và rất lưu tâm đến. Xét trên bình diện này, người
ta không còn để ý tới sự phân biệt giữa giáo phẩm và giáo dân. Ðức ái hoàn hảo
là luật sống độc nhất cho mỗi người, trong khi đó không phải ai cũng giữ qui luật
đời tu. Phản đối nguyên tắc này có nghĩa là không biết đến giá trị Kitô giáo của
hôn nhân và gia đình.
4)
Chúng ta đi hai chương cuối cùng: chương VII trình bày sự bành trướng cánh chung của Giáo Hội trong
huy hoàng và trong cộng đoàn các Thánh; chương VIII và cũng là chương sau cùng,
bàn về địa vị và sứ mệnh của Ðức Trinh Nữ, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ
nhân loại, ở trong cộng đoàn có Ngài là kiểu mẫu và là Ðấng bảo trợ. Nhờ có
chung nền tảng mà hai chương này liên kết được với nhau. Cả hai cùng hướng về
cuộc kết thúc huy hoàng, lúc đó bóng đêm của mầu nhiệm sẽ nhường chỗ cho ánh
sáng.
Sau
các cuộc thảo luận gay go và nhiều lần bỏ phiếu, người ta đã đi đến kết thúc.
Nhưng một thiểu số ngoan cố không chịu khuất phục. Ðể xoa dịu và để mọi người đồng
thanh chấp nhận một vấn đề quan trọng như thế - một sự đồng thanh cần thiết
trong tất cả các quyết định của Công Ðồng - ngày 16 tháng 11 năm 1964, Ðức Giáo
Hoàng đã đề nghị với Công Ðồng để thêm một phần "chú thích sơ khởi"
cho chương III của Hiến Chế. Giáo lý của chương III trong Hiến Chế phải được giải
thích và được hiểu theo phần chú thích này. Một số đông các Nghị Phụ bối rối về
phần chú thích, nhưng dường như không có lý do. Thật vậy, phần đó không chứa đựng
điều gì thực sự mới mẻ nhưng chỉ giải thích rõ rệt hơn một vài ý niệm pháp lý,
vì có một số Nghị Phụ dựa vào những ý niệm này để bênh vực cho những thắc mắc của
các ngài. Cũng nên biết rằng, phần chú thích sơ khởi ấy tương ứng với phần giải
thích rất tỉ mỉ về 5 vấn đề đặt ra ngày 30 tháng 10 năm 1963, phần giải thích
mà ngay cả những vị bây giờ thắc mắc với phần chú thích cũng đã không ngần ngại
bỏ phiếu chấp thuận. Lời diễn tả ở hai phần kể là như nhau. Khi mây đen dần dần
tan biến, người ta đã xóa tan được những ngộ nhận sau cùng, nhờ xem kỹ lại phần
chú thích sơ khởi. Trong cuộc đầu phiếu ngày 19 tháng 11 năm 1964 về toàn bộ lược
đồ, chỉ còn 10 phiếu chống; trong cuộc đầu phiếu chung quyết trọng thể ngày 21
tháng 11 năm 1964, số phiếu chống trụt xuống còn 5. Như thế kể là mọi người đã
đồng thanh chấp nhận.
Sau
phần phác họa về lịch sử các biến cố, chúng ta sang phần phân tích bản văn, đi
theo thứ tự của Hiến Chế. Mục đích mà chúng ta muốn nhằm tới là: qua những chú
thích đơn sơ vắn tắt, chúng ta sẽ trung thành hết sức có thể với điều Công Ðồng
giảng dạy. Chúng ta nhằm đến phần chính yếu, tìm cách xác định nội dung những
điều Công Ðồng quả quyết và bỏ qua những điều giải thích sâu rộng hơn cũng như
những vấn đề đang được các thần học gia tranh luận.
Thánh
Công Ðồng Chung Vaticanô II
Khóa V Ngày 21 tháng 11 Năm 1964
Phaolô Giám Mục
Tôi Tớ Các Tôi Tớ Thiên Chúa
Hiệp Nhất Với Các Nghị Phụ Của Thánh Công Ðồng
Ðể Muôn Ðời Ghi Nhớ
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo
Hội - Lumen Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học
Viện Piô X
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
1. Giáo Hội, bí tích trong Ðức Kitô. Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng
đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng
ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc
Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích
hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp
nhất toàn thể nhân loại, nên, dựa trên giáo huấn của các Công Ðồng trước, Giáo
Hội muốn làm sáng tỏ bản tính và sứ mệnh phổ quát của mình cho tín hữu và toàn
thế giới. Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn
thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã
hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô. 2*
2. Ý định cứu chuộc phổ quát của Chúa Cha. 3* Bởi ý định khôn ngoan nhân lành,
hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã
quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ
bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi,
nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng
của tạo vật" (Col 1,15). Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được
tuyển chọn, Chúa Cha "đã biết trước và đã tiền định cho họ trở nên giống
hình ảnh Con Chúa, hầu người Con đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh
em" (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô
vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được phác thảo bằng hình bóng, được
chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ 1,
được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự
xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta
đọc thấy nơi các Giáo Phụ, mọi người công chính từ Adam, "từ Abel công
chính đến người được tuyển chọn cuối cùng" 2 sẽ được
tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha.
3. Sứ mạng và công cuộc của Chúa Con. Thế là Chúa Con được phái đến do Chúa Cha, Ðấng đã tuyển
chọn chúng ta nơi Người trước khi tạo dựng vũ trụ và tiền định chúng ta làm
dưỡng tử, vì Ngài mong ước cải tạo tất cả trong Chúa Con (x. Eph 1,4-5 và 10).
Bởi thế, để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai nguyên nước trời nơi
trần gian, mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm của Ngài, và thực hiện việc cứu thế
bằng việc vâng phục Chúa Cha. Giáo Hội hoặc nước Chúa Kitô đã hiện diện cách
mầu nhiệm, nhờ thần lực Thiên Chúa, phát triển trong thế gian cách hiển nhiên.
Sự khai nguyên và phát triển đó được biểu thị bằng máu và nước chảy ra từ cạnh
sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh (x. Gio 19,34) và được tiên báo qua lời Chúa nói
về cái chết của Người trên thập giá: "Và Ta, khi bị treo lên khỏi đất, Ta
sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" (Gio 12,32, bản Hy lạp). Mỗi lần hy lễ thánh
giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó "Chúa Kitô, chiên vượt qua của chúng
ta chịu hiến tế" (1Cor 5,7), thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực
hiện. Bí tích Thánh Thể cũng biểu thị và thực hiện sự hiệp nhất các tín hữu, là
những kẻ hợp thành một thân thể, trong Chúa Kitô (x. 1Cor 10,17). Mọi người đều
được mời gọi kết hiệp cùng Chúa Kitô như vậy. Người là ánh sáng thế gian. Chúng
ta phát xuất từ Người, sống nhờ Người và hướng về Người.
4.
Việc thánh hóa Giáo Hội của Chúa Thánh Thần. Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện
trên trần gian đã hoàn tất (x. Gio 17,4) Chúa Thánh Thần được phái đến trong
ngày lễ Hiện Xuống để thánh hóa Giáo Hội mãi mãi, và như thế những ai tin sẽ
được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong một Thần Khí duy nhất (x. Eph 2,18).
Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là mạch nước vọt lên sự sống vĩnh cửu (x.
Gio 4,14; 7,38-39), nhờ Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi,
đợi đến khi phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x. Rm 8,10-11).
Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự
giữa đền thờ (x. 1Cor 3,16; 6,19). Trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ
là dưỡng tử (x. Gal 4,6; Rm 8,15-16 và 26). Ngài dẫn đưa Giáo Hội trong hiệp
thông và phục vụ. Ngài huấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội bằng muôn ơn theo phẩm
chức và đoàn sủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa quả của Ngài (x. Eph 4,11-12;
1Cor 12,4; Gal 5,22). Nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài là tươi trẻ, không ngừng canh
tân và dẫn đưa Giáo Hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân mình 3.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa Giêsu rằng: "Xin hãy
đến" (x. Kh 22,17).
Như
thế Giáo Hội phổ quát xuất hiện như "một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" 4.
5.
Nước Thiên Chúa. 4* Mầu nhiệm
Giáo Hội thánh thiện được biểu lộ trong chính việc thành lập. Thực thế, Chúa
Giêsu đã khai sinh Giáo Hội bằng việc rao giảng Phúc Âm rằng Nước Thiên Chúa đã
đến như đã hứa trong Thánh Kinh từ ngàn xưa: "Thời gian đã trọn, Nước
Thiên Chúa gần đến" (Mc 1,15; x. Mt 4,17). Nước này chiếu sáng trước mặt
mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Kitô. Lời Chúa ví như
hạt giống gieo trong ruộng (x. Mc 4,14): ai tin nghe lời Chúa và gia nhập đàn
chiên nhỏ của Chúa Kitô (x. Lc 12,32), thì đã đón nhận chính Nước Ngài; rồi tự
sức mình, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho đến mùa gặt (x. Mc 4,26-29). Các
phép lạ của Chúa Giêsu cũng chứng minh rằng Nước Ngài đã đến thế gian:
"Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ ma quỉ, ắt Nước Thiên Chúa đã đến
nơi các ngươi rồi" (Lc 11,20; x. Mt 12,28). Nhưng trước tiên, Nước ấy biểu
lộ trong chính con người Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Con loài người, Ðấng đã
đến "để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ" (Mc
10,45).
Vì
sau khi chịu chết trên thập giá cho nhân loại, Chúa Giêsu đã phục sinh, nên
Người được phong làm Chúa, làm Ðấng Kitô và làm Linh Mục muôn đời (x. CvTđ
2,36; Dth 5,6; 7,17-21); và Người đổ tràn Thánh Thần mà Chúa Cha đã hứa trên
các môn đệ Người (x. CvTđ 2,33). Vì thế, với ân huệ của Ðấng sáng lập, và trong
khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Giáo Hội
đã lãnh nhận sứ mệnh rao truyền và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa
trong mọi dân tộc; Giáo Hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian.
Ðang lúc từ từ phát triển, Giáo Hội vẫn khát mong Nước ấy hoàn tất và thiết tha
hy vọng, mong ước kết hợp với Vua mình trong vinh quang. 5*
6. Hình ảnh diễn tả Giáo Hội. Trong Cựu Ước, việc mạc khải Nước Thiên Chúa thường được
trình bày bằng hình bóng; cũng thế, ngày nay bản tính thâm sâu của Giáo Hội
được diễn tả bằng nhiều hình ảnh lấy từ đời sống du mục, canh nông, kiến trúc,
hoặc gia đình và hôn lễ. Sách các tiên tri đã phác họa những hình ảnh đó.
Thực thế, Giáo Hội là chuồng chiên
mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết (x. Gio 10,1-10). Giáo Hội cũng
là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Ngài là mục tử (x. Is 40,11; Ez
34,11 tt). Tuy được các mục tử phàm nhân chăn dắt, những chiên ấy luôn được
chính Chúa Kitô, Mục Tử nhân lành và Thủ Lãnh các mục tử, dẫn dắt và nuôi dưỡng
(x. Gio 10,11; 1P 5,4). Người đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (x. Gio
10,11-15).
Giáo Hội cũng là thửa ruộng hay cánh
đồng Thiên Chúa (x. 1Cor 3,9). Trong cánh đồng ấy, mọc lên cây dầu cổ thụ mà
các Tổ Phụ là gốc rễ thánh. Nơi cây cổ thụ này, sự hòa giải giữa dân Israel và
các dân ngoại đã được và sẽ được thực hiện (x. Rm 11,13-26). Người trồng nho
thiên quốc vun trồng Giáo Hội như một cây nho được tuyển chọn (x. Mt 21,33-43
song song; x. Is 5,1 tt). Chúa Kitô là cây nho đích thực. Người ban sức sống và
hoa trái cho các nhánh là chúng ta. Nhờ Giáo Hội, chúng ta ở trong Người; và
không có Người, chúng ta không thể làm gì được (x. Gio 15,1-5).
Giáo
Hội cũng thường được gọi là tòa nhà của Thiên Chúa (x. 1Cor 3,9). Chúa Kitô đã
tự ví Người như viên đá mà các thợ xây loại bỏ, nhưng đã trở thành viên đá góc
(x. Mt 21,42 song song; CvTđ 4,11; 1P 2,7; Tv 117,22). Trên nền móng này, các
Tông Ðồ đã xây dựng Giáo Hội (x. 1Cor 3,11), và Giáo Hội được bền vững, liên
kết nhờ nền móng đó. Tòa nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên
Chúa (x. 1Tm 3,15), nơi gia đình Ngài cư ngụ. Nhà Thiên Chúa trong Chúa Thánh
Thần (x. Eph 2,19-22), "Lều Tạm của Thiên Chúa giữa loài người" (Kh
21,3), và nhất là Ðền Thánh, tiêu biểu bằng các cung thánh bằng đá, đã từng
được các Thánh Giáo Phụ ca tụng, và được Phụng Vụ sánh ví rất chính xác với
Thành thánh, thành Giêrusalem mới 5.
Thực vậy, trong Giáo Hội tại thế, chúng ta là những viên đá sống động dùng vào
việc xây cất (x. 1P 2,5). Thánh Gioan đã chiêm ngưỡng Thành thánh ấy từ trời
nơi Thiên Chúa mà xuống trong ngày cải tạo vũ trụ, "sẵn sàng như hiên thê
trang điểm để đón tân lang mình" (Kh 21,1tt).
Giáo
Hội còn được gọi là "thành Giêrusalem trên trời" là "mẹ chúng
ta" (Gal 4,26; x. Kh 12,17), được mô tả như hiền thê tinh tuyền của Con
Chiên không tì ố (x. Kh 19,7; 21,2 và 9; 22,17) được Chúa Kitô yêu mến "và
hiến thân để thánh hóa" (Eph 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao
ước bất khả phân ly, được "nuôi dưỡng và săn sóc" không ngừng (Eph
5,29). Sau khi thanh tẩy hiền thê, Chúa Kitô muốn hiền thê ấy kết hợp và vâng
phục mình trong tình yêu và trung tín (x. Eph 5,24). Sau cùng, Người vĩnh viễn
ban cho dư tràn ơn thiêng trên trời để chúng ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên
Chúa và Chúa Kitô đối với chúng ta, tình yêu ấy vượt trên mọi hiểu biết (x. Eph
3,19). Bao lâu còn là lữ hành trên dương thế xa cách Chúa (x. 2Cor 5,6), Giáo
Hội nhận mình bị lưu đày, nên luôn tìm kiếm và nếm hương vị trên trời, nơi Chúa
Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa; nơi tiềm ẩn sự sống của Giáo Hội cùng Chúa Kitô
trong Thiên Chúa, cho đến ngày xuất hiện với Phu Quân mình trong vinh quang (x.
Col 3,1-4). 6*
7. Giáo Hội, thân thể Ðức Kitô. Khi Con Thiên Chúa chiến thắng sự chết bằnng cái chết và
phục sinh, trong nhân tính mà Người kết hợp, Người đã cứu chuộc và biến con
người thành một tạo vật mới (x. Gal 6,15; 2Cor 5,17). Thực vậy, Người tạo lập
cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước thành thân thể Người, bằng
cách thông truyền Thánh Thần cho họ.
Trong
thân thể ấy, sự sống Chúa Kitô tràn lan trên các tín hữu. Nhờ các bí tích, các
tín hữu được kết hợp thực sự và cách mầu nhiệm với Chúa Kitô đau khổ và vinh
hiển 6. Quả thực, nhờ phép thánh tẩy chúng được nên giống Chúa
Kitô: "Vì tất cả chúng ta được tẩy rửa trong một Chúa Thánh Thần để nên
một thân thể" (1Cor 12,13). Nghi thức thánh thiện ấy diễn tả và thực hiện
sự hiệp nhất với cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô: "Nhờ phép thánh
tẩy, chúng ta được mai táng cùng Người trong cái chết"; và nếu "chúng
ta liên kết với Người trong cuộc tử nạn thế nào thì cũng sẽ được sống lại với
Người như vậy" (Rm 6,4-5). Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự
vào Thân Thể của Chúa nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với
nhau. "Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết
thảy chúng ta đồng thông hưởng cũng một tấm bánh" (1Cor 10,17). Thế nên
tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân Thể ấy (x. 1Cor 12,27), "vì mỗi
người là chi thể của nhau" (Rm 12,5).
Thật vậy, tất cả các chi thể tuy
nhiều, nhưng chỉ tạo thành một thân thể; cũng thế, các tín hữu hợp thành một
thân thể trong Chúa Kitô (x. 1Cor 12,12). Trong việc xây dựng thân thể Chúa
Kitô, cần có nhiều chi thể với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần
ban những ân sủng khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài
và tùy nhu cầu của công việc (x. 1Cor 12,1-11). Trong các ân sủng ấy, ơn ban
cho các Tông Ðồ đứng hàng đầu: chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài cả
những người lãnh nhận những ơn đặc biệt (x. 1Cor 14). Cũng chính Thánh Thần ấy
tự mình hợp nhất thân thể bằng thần lực Ngài và bằng sự liên kết tinh thần các
chi thể lại với nhau; như thế Ngài làm phát sinh và thúc bách đức ái giữa các
tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn thì tất cả các chi thể khác đều bị
đau đớn; và nếu một chi thể nào được vinh dự thì tất cả các chi thể khác cùng
chung vui (x. 1Cor 12,26).
Chúa
Kitô là Ðầu của Thân Thể này. Chính Người là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, và
trong Người mọi vật được tác thành. Người có trước mọi người và mọi sự được bền
vững trong Người. Người là Ðầu của Thân Thể là Giáo Hội. Người là nguyên lý, là
anh cả của những kẻ phải chết, hầu nắm quyền thủ lãnh mọi sự (x. Col 1,15-18),
Người thống trị mọi vật trên trời dưới đất bằng thần lực lớn lao, và ban dư
tràn sự vinh hiển phong phú của Người cho toàn thân thể nhờ sự toàn thiện và
hoạt động siêu đẳng của Người (x. Eph 1,18-23) 7.
Mọi chi thể phải nên giống Chúa Kitô
cho đến khi Người hình thành trong họ (x. Gal 4,19). Vì thế, chúng ta được kết
nạp vào mầu nhiệm sự sống của Người, trở nên giống Người, cùng chết và sống lại
với Người, cho đến khi cùng cai trị với Người (x. Ph 3,21; 2Tm 2,11; Eph 2,6;
Col 2,12; v.v�). Ðang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân
Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ
của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp với sự thương khó của Người để
được cùng Người vinh hiển (x. Rm 8,17).
Trong Người, "toàn thân tìm
được lương thực và sự liên kết nhờ các mối dây ràng buộc cấu kết với nhau, để
lớn lên trong Thiên Chúa" (Col 2,19). Trong thân thể Người là Giáo Hội,
Người luôn ban ơn huệ là các chức vụ, nhờ đó, với thần lực Người, chúng ta giúp
nhau cứu rỗi, hầu khi thực hiện chân lý trong bác ái, chúng ta lớn lên về mọi
phương diện trong Người, là Ðầu của chúng ta (x. Eph 4,11-16, bản Hy lạp).
Ðể
chúng ta không ngừng canh tân trong Người (x. Eph 4,23), Người đã cho thông dự
vào Thánh Thần Người, cũng một Ðấng duy nhất hiện hữu trên Ðầu cũng như trong
các chi thể, làm sống động, liên kết và thúc giục toàn thân, đến nỗi các thánh
Giáo Phụ đã ví nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần với công việc mà nguyên lý sự sống,
tức là linh hồn, hoàn thành trong thân xác 8.
Chúa
Kitô yêu thương Giáo Hội như hiền thê Người, Người trở thành gương mẫu của
người chồng yêu vợ mình như yêu chính bản thân (x. Eph 5,25-28); phần Giáo Hội
thì tùng phục Ðầu (n.v.t, 23-24); "Vì tất cả sự sung mãn về bản tính Thiên
Chúa ở trong Người cách hữu hình" (Col 2,9), nên Người đổ tràn ơn thiêng
trên Giáo Hội, là thân thể, là sự sung mãn của Người (x. Eph 1,22-23) để Giáo
Hội cố gắng đạt tới sự viên mãn hoàn toàn của Thiên Chúa (x. Eph 3,19).
7*
8. Giáo Hội, thực tại hữu hình và
thiêng liêng. 8* Chúa
Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện, một cộng
đoàn đức tin, cậy và mến, như một toàn bộ cấu trúc hữu hình trên trần gian mà
Người không ngừng bảo vệ 9. Qua Giáo Hội, Người đổ tràn chân lý
và ân sủng cho mọi người. Giáo Hội là xã hội có tổ chức qui củ, và Nhiệm Thể
Chúa Kitô, đoàn thể hữu hình và cộng đoàn thiêng liêng, Giáo Hội tại thế và
Giáo Hội dư tràn của cải trên trời không được quan niệm như hai thực thể nhưng
chỉ là một thực thể phức tạp, duy nhất, do yếu tố nhân loại và thần linh kết
thành10. Vì thế, nhờ loại suy xác thực, chúng ta có thể ví Giáo Hội
với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thực vậy, nhân tính mà Ngôi Lời mặc lấy phục
vụ Người như cơ quan cứu rỗi sống động và kết hợp với Người cách bất khả phân
ly; cũng thế, toàn thể cơ cấu xã hội của Giáo Hội phục vụ Thánh Thần Chúa Kitô,
Ðấng làm cho Giáo Hội sống động để tăng triển thân thể (x. Eph 4,16) 11.
Ðó là Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô mà trong Kinh Tin Kính
chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền12.
Sau khi phục sinh, Ðấng cứu chuộc chúng ta đã trao phó cho Phêrô chăn dắt Giáo
Hội đó (Gio 21,17); Người phó thác cho Phêrô cũng như cho các Tông Ðồ khác
truyền bá, cai quản (x. Mt 28,18tt), và thiết lập Giáo Hội nên "rường cột
và nền tảng chân lý" đến muôn đời (x. 1Tm 3,15). Như một xã hội được thiết
lập qui củ trên trần gian, Giáo Hội ấy tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, do
Ðấng kế vị Phêrô và các giám mục hiệp thông với Ngài điều khiển 13,
và mặc dù bên ngoài cơ cấu của Giáo Hội còn có nhiều yếu tố thánh hóa và chân
lý, nhưng những yếu tố ấy là những ơn riêng của Giáo Hội Chúa Kitô, thúc bách
đến sự hiệp nhất công giáo.
Như Chúa Kitô đã hoàn tất công trình
cứu chuộc trong khó nghèo và bách hại, Giáo Hội cũng được mời gọi đi cùng đường
lối ấy hầu thông ban ơn cứu rỗi cho loài người. Chúa Giêsu Kitô "vốn có
hình thể Thiên Chúa... tự hủy mình, tự nhận thân phận tôi tớ" (Ph 2,6-7),
và "vốn giàu có, Người đã hóa ra nghèo hèn" vì chúng ta (2Cor 8,9):
cũng thế, tuy cần đến những phương tiện nhân loại để chu toàn sứ mệnh mình,
Giáo Hội được thiết lập không phải để tìm kiếm vinh quang trần thế, nhưng để
truyền bá khiêm nhường và từ bỏ, bằng gương lành của chính mình. Chúa Kitô được
Chúa Cha phái đến "rao truyền Phúc Âm cho kẻ bần cùng... cứu chữa các tâm
hồn đau khổ" (Lc 4,18), "tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất"
(Lc 19,10). Cũng thế, Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự
yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những kẻ nghèo khó và đau khổ hình
ảnh Ðấng Sáng Lập khó nghèo và khổ đau, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và
nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ. Nhưng Chúa Kitô "thánh thiện, vô tội,
tinh tuyền" (Dth 7,26), không hề phạm tội (x. 2Cor 5,21), chỉ đến để đền
tội lỗi dân chúng (x. Dth 2,17), còn Giáo Hội, vì ôm ấp những kẻ có tội trong
lòng, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh tẩy mình. Do đó, Giáo Hội luôn
thực hiện việc sám hối và canh tân.
"Lữ
hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên
Chúa" 14*, Giáo Hội rao truyền cái chết và thánh giá Chúa,
cho đến khi Người trở lại (x. 1Cor 11,26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của
Chúa phục sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như
bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho thế gian mầu
nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng
vẹn toàn trong ngày sau hết.
Chương II: Dân Thiên Chúa 9*
2. Giao Ước mới và Dân Tộc mới. Chắc chắn trong mọi
thời đại và mọi dân tộc, bất cứ người nào kính sợ Thiên Chúa và thực hành đức
công chính đều được Ngài đoái thương (x. CvTđ 10,35). Tuy nhiên, Thiên Chúa
không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng
Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý,
và phụng sự Ngài trong thánh thiện. Vì thế, Ngài đã chọn dân Israel là dân
Ngài, đã thiết lập với họ một giao ước, giáo huấn họ dần dần bằng cách tỏ chính
mình và ý định mình qua lịch sử dân ấy, và Ngài đã thánh hóa họ để dành riêng
cho mình. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là chuẩn bị và hình bóng của giao
ước mới và hoàn hảo, sẽ được ký kết trong Chúa Kitô, và là chuẩn bị cho mạc khải
trọn vẹn hơn do chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mang đến. Thiên Chúa phán:
"Này đây sẽ tới ngày Ta ký giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa... Ta
sẽ ban luật Ta trong lòng chúng, và khắc ghi luật ấy vào trái tim chúng, và Ta
sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ trở thành dân Ta... Tất cả mọi người từ
nhỏ chí lớn đều sẽ nhận biết Ta. Ðó là Lời Chúa phán" (Gier 31,31-34).
Chúa Kitô đã thiết lập minh ước mới ấy, đó là giao ước mới trong máu Người (x.
1Cor 11,25), Người triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân ngoại, họp
thành một khối duy nhất trong Thánh Thần chứ không theo xác thịt, để làm họ nên
dân tộc mới của Thiên Chúa. Thực vậy, những ai tin kính Chúa Kitô đều được tái
sinh không phải bởi mầm mống hay hư nát, nhưng do mầm mống bất diệt nhờ lời
Thiên Chúa hằng sống (x. 1P 1,23), không phải bởi xác thịt nhưng bởi nước và
Thánh Thần (x. Gio 3,5-6), và cuối cùng trở thành một "dòng giống được tuyển
chọn, thành hàng tư tế vương giả, dân tộc thánh, dân tộc đã được Thiên Chúa thu
phục, trước kia không phải là một dân, mà nay là dân của Thiên Chúa" (1P
2,9-10).
Dân
thiên sai này có vị thủ lãnh là Chúa Kitô, "Ðấng đã bị nộp vì tội lỗi ta
và phục sinh cho ta nên công chính" (Rm 4,25), và bây giờ Người được một
danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, và đang hiển trị trên trời. Ðịa vị dân này
là được vinh dự và tự do làm Con Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ
như trong đền thờ. Luật của họ là giới răn mới: phải thương yêu nhau như chính
Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta (x. Gio 13,34). Sau cùng, cứu cánh của họ, tức
là phát triển thêm Nước Thiên Chúa, đã được Ngài khai nguyên trên trần gian,
cho tới khi được Ngài hoàn tất trong ngày tận thế, ngày mà Chúa Kitô, sự sống của
chúng ta, hiện đến (x. Col 3,4), ngày mà "chính tạo vật cũng được giải
phóng khỏi ách nô lệ hư nát, lại được tự do trong vinh quang con cái Thiên
Chúa" (Rm 8,21). Vì thế, dân tộc thiên sai ấy, tuy hiện nay chưa bao gồm
toàn thể nhân loại và đôi khi tỏ ra như một đàn chiên nhỏ, nhưng lại là một mầm
mống vững chắc nhất của hiệp nhất, hy vọng và cứu rỗi cho toàn thể nhân loại.
Dân tộc thiên sai ấy được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái
và chân lý, được Người xử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được sai đi
khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất (x. Mt 5,13-16).
Cũng như dân Israel theo xác thịt, khi đang
lữ hành trong sa mạc, đã được gọi là Giáo Hội của Thiên Chúa (x. 2Esd 13,1; Ds
20,4; Dnl 23,1tt), dân Israel mới tiến bước trong thời đại này đang tìm về
thành thánh tương lai bất diệt (x. Dth 13,14) cũng được gọi là Giáo Hội Chúa
Kitô (x. Mt 16,18). Thực vậy, chính Người đã lấy máu mình mà chuộc lấy Giáo Hội
đó (x. CvTđ 20,28), Người đổ tràn Thánh Thần và ban các phương thế thích hợp để
kết hiệp thành một xã hội hữu hình. Thiên Chúa triệu tập tất cả những người tin
kính và mong đợi Chúa Kitô, Ðấng ban ơn cứu độ và hiệp nhất, nguyên lý của sự
hòa bình; Ngài thiết lập họ thành Giáo Hội để Giáo Hội trở nên bí tích hữu hình
của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người 1. Với bổn phận phải
lan rộng khắp thế giới, Giáo Hội đi sâu vào lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo Hội
đồng thời cũng vượt thời gian và biên giới các dân tộc. Tiến bước giữa cơn cám
dỗ và đau thương, Giáo Hội vững mạnh nhờ ơn Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã hứa
ban, hầu Giáo Hội vẫn hoàn toàn trung tín, sống như một Hiền Thê xứng đáng của
Chúa mình, dầu xác thịt yếu hèn, và không ngừng tự đổi mới dưới tác động của
Chúa Thánh Thần cho đến ngày, nhờ thánh giá, đạt đến ánh sáng không hề tắt. 10*
10. Chức tư tế cộng đồng. 11* Chúa Kitô, Linh Mục
Thượng Phẩm được chọn nơi loài người (x. Dth 5,1-5), để biến dân tộc mới thành
một "vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người" (Kh
1,6; x. 5,9-10). Thực vậy, những người đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ được tái
sinh và xức dầu của Thánh Thần, được cung hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng
và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của con người Kitô hữu, dâng của
lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi họ từ bóng tối đến
ánh sáng kỳ diệu của Ngài (x. 1P 2,4-10). Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa
Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x. CvTđ
2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên
Chúa (x. Rm 12,1), phải làm chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất và trình bày
niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát. (x.
1P 3,15).
Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu và chức
tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản
chất, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh mục
duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình 2. Tư tế thừa tác,
nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò
Chúa Kitô cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn
thể dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ 3, và thi hành chức
vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống
chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực. 12*
11. Hành sử chức tư tế cộng đồng trong các bí tích. 13* Ðặc tính thánh thiện
và có tổ chức của cộng đoàn tư tế được thể hiện trong hành động nhờ các bí tích
và các nhân đức. Các tín hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy, và nhờ ấn
tích, họ được đề cử thi hành việc phụng thờ Kitô giáo và, được tái sinh làm con
Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận
lãnh từ Thiên Chúa qua Giáo Hội 4. Nhờ ơn bí tích Thêm Sức, họ gắn bó với
Giáo Hội cách hoàn hảo hơn và được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần,
do đó họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và bảo vệ đức tin bằng
lời nói và việc làm như những chứng nhân đích thực của Chúa Kitô 5. Khi tham dự thánh
lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ Vật
thần linh và cùng với Lễ Vật ấy họ tự dâng chính mình họ 6. Khi dâng lễ cũng
như khi hiệp lễ, không phải cách lộn xộn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào
việc cử hành phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong
thánh lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy
được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này.
Những
ai đến nhận lãnh bí tích Cáo Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc
phạm đến Ngài. Ðồng thời họ được giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn
thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, gương lành và kinh nguyện, để
hoán cải họ. Bằng phép Xức Dầu Thánh và lời cầu nguyện của các linh mục, toàn
thể Giáo Hội phó thác các bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và hiển vinh để Người
an ủi và cứu rỗi họ (x. Giac 5,14-16); hơn nữa, Giáo Hội còn thúc giục họ sẵn
sàng kết hợp với Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết (x. Rm 8,17; Col 1,24; 2Tm
2,11-12; 1P 4,13) để mưu ích cho Dân Thiên Chúa. Còn những người trong các tín
hữu có hân hạnh lãnh nhận chức Thánh, được đặt lên nhân danh Chúa Kitô để chăn
dắt Giáo Hội bằng ân sủng và Lời Thiên Chúa. Sau cùng, nhờ sức thiêng của bí
tích Hôn Phối, các đôi vợ chồng Kitô giáo biểu hiện và tham dự mầu nhiệm hiệp
nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (x. Eph 5,32); họ giúp
nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con
cái; cũng vì đó, họ được những ơn riêng cho đấng bậc mình trong Dân Chúa 7. Từ sự kết hợp ấy
phát sinh ra gia đình, nơi các công dân mới của xã hội loài người được sinh ra,
và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần trong bí tích Thánh Tẩy, họ trở nên con cái
Thiên Chúa, hầu Dân Chúa tồn tại mãi trong dòng lịch sử. Trong gia đình như một
Giáo Hội nhỏ, ước gì cha mẹ là những người đầu tiên dùng gương lành và lời nói
mà truyền dạy đức tin cho con cái, cũng như phải lo chăm sóc đến ơn gọi riêng của
từng đứa con, và phải đặc biệt chăm sóc đến ơn kêu gọi làm linh mục.
Ðược ban cho những phương tiện cứu rỗi dồi
dào như thế, mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi
đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của
mỗi người. 14*
12. Cảm thức của đức tin và đoàn sủng
trong Dân Thiên Chúa. Dân Thánh Thiên Chúa cũng tham dự vào chức vụ tiên
tri của Chúa Kitô bằng cách phổ biến chứng tá sống động về Người, nhất là qua đời
sống đức tin và đức ái; và dâng lên Thiên Chúa của lễ ca tụng, hoa trái của những
miệng lưỡi ngợi khen thánh Danh Người (x. Dth 13,15). Toàn thể tín hữu, được
Chúa Thánh Thần xức dầu (x. 1Gio 2,20 và 27), không thể sai lầm trong đức tin.
Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân
Chúa, khi "từ các giám mục cho đến người giáo dân rốt hết" 8 đều đồng ý về những
điều liên quan đến đức tin và phong hóa. Thực vậy, nhờ cảm thức về đức tin được
Thánh Thần chân lý khơi dậy và duy trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần
linh của Giáo Hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa nhận lãnh không
phải lời nói của loài người nữa, mà thực sự là lời của Thiên Chúa (x. 1Th 2,13;
họ gắn bó hoàn toàn "với đức tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh"
(Gđa 3), họ tiến sâu hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin
cách hoàn hảo hơn.
Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ
thánh hóa và hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang
điểm họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi
cấp bậc các tín hữu "phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài"
(1Cor 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm
nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và
phát triển Giáo Hội như lời chép rằng: "Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người
hầu mang lại lợi ích" (1Cor 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ
các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri
ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội.
Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng vì đó mà tự đắc
mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm
quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự xử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các
ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần,
nhưng để giữ lại những điều thiện hảo (x. 1Th 5,12 và 19-21). 15*
13. Tính cách phổ quát nơi Dân duy nhất của Thiên Chúa. 16* Mọi người được mời
gọi gia nhập Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Vì thế, Dân mới này, một dân duy nhất
và hằng hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới trải qua mọi thế hệ,
hầu hoàn tất kế hoạch của Thánh Ý Thiên Chúa, Ðấng từ nguyên thủy đã tạo dựng một
bản tính nhân loại duy nhất, và quyết định sau này tập họp tất cả con cái Ngài
tản mát đó đây thành một dân tộc độc nhất (x. Gio 11,52). Chính vì mục đích ấy
mà Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, Ðấng mà Ngài đã đặt làm thừa kế vũ trụ (x.
Dth 1,2), hầu trở nên Thầy, Vua và Tư Tế cho mọi người, và nên Thủ Lãnh của dân
tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa. Sau cùng, cũng vì mục đích đó mà
Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con Ngài, là Chúa và là Ðấng ban sự sống. Ðối
với toàn Giáo Hội, với tất cả cũng như với mỗi tín hữu, Thánh Thần là nguyên lý
qui tụ và hiệp nhất, trong giáo lý của các Tông Ðồ, trong sự hiệp thông, bẻ
bánh và kinh nguyện (x. CvTđ 2,42, bản Hy lạp).
Như
thế, Dân duy nhất của Thiên Chúa hiện diện nơi mọi dân nước trần gian. Tuy dân
của Nước Ngài là công dân của các nước, song thực ra, đặc tính của Nước ấy
không thuộc về thế gian nhưng thuộc về Trời. Quả thực, mọi tín hữu rải rác trên
khắp hoàn cầu đều hiệp thông trong Thánh Thần với tất cả các tín hữu khác, và
vì thế "kẻ ở Rôma biết rằng người Ấn Ðộ là chi thể mình" 9. Nhưng vì Nước
Chúa Kitô không thuộc về thế gian này (x. Gio 18,36), nên Giáo Hội, tức Dân
Thiên Chúa, hợp thành Nước ấy, không loại bỏ bất cứ một phần di sản trần thế
nào của các dân tộc; trái lại, Giáo Hội chăm sóc và thu dụng tất cả những gì tốt
lành nơi gia sản, nơi nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và khi thu dụng,
Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và làm chúng nên cao thượng. Thực vậy, Giáo Hội
nhớ rằng mình phải kết hợp với Vua ấy là Ðấng đã lãnh nhận các dân nước làm gia
nghiệp mình (x. Tv 2,8), và các dân nước mang đến Thành Ðô Người của lễ và tặng
vật (x. Tv 71 (72),10; Is 60,4-7; Kh 21,24). Ðặc tính phổ quát này, tư trang của
Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên Chúa ban, nhờ đó Giáo Hội Công Giáo
luôn nỗ lực cách hữu hiệu qui tụ toàn thể nhân loại cùng những gì tốt lành nơi
họ dưới một Thủ Lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần10.
Nhờ
đặc tính công giáo ấy, mỗi phần tử mang những ân huệ riêng của mình đến cho các
phần tử khác và cho toàn Giáo Hội, do đó toàn thể và mỗi phần tử tăng triển nhờ
hiệp thông với nhau và nhờ nỗ lực tiến đến viên mãn trong sự hiệp nhất. Vì thế,
Dân Thiên Chúa tạo thành không những do các dân nước qui tụ lại nhưng còn do
các chức vụ khác nhau trong nội bộ nữa. Thực vậy, giữa các phần tử trong dân,
có nhiều sự khác biệt: hoặc do chức vụ, như những người thi hành thừa tác vụ
thánh để mưu lợi ích cho anh em mình, hoặc do hoàn cảnh và nếp sống, như những
người sống trong bậc tu trì, cố gắng nên thánh bằng con đường khắc khổ hơn và
nêu gương khích lệ anh em. Cũng vì thế, ngay trong sự hiệp thông của Giáo Hội
cũng có sự hiện diện hợp pháp của những Giáo Hội địa phương, thừa hưởng những
truyền thống riêng, mà vẫn không phương hại đến quyền tối thượng của Tòa Thánh
Phêrô, Tòa Thánh này, thủ lãnh toàn thể cộng đoàn đức ái 11, bảo vệ các dị biệt
hợp pháp không phương hại, trái lại còn sinh ích cho sự hiệp nhất đó. Cũng vì
thế các thành phần khác nhau của Giáo Hội liên kết với nhau bằng mối dây hiệp
thông mật thiết về của cải thiêng liêng, về thợ truyền giáo và về sự trợ giúp vật
chất. Quả thực, mọi phần tử Dân Thiên Chúa được kêu gọi chia sẻ của cải mình và
lời nói sau đây của vị Tông Ðồ cũng có giá trị cho mọi Giáo Hội: "Mỗi người
hãy tùy theo ơn đã nhận được mà giúp đỡ lẫn nhau, như những quản lý tài ba phân
phối mọi thứ ơn của Thiên Chúa" (1P 4,10).
Vì thế mọi người đều được mời gọi vào sự hiệp
nhất công giáo này của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy tiên báo và cổ võ nền
hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc hướng về sự hiệp nhất đó dưới nhiều thể
cách khác nhau, được sắp xếp hoặc họ là tín hữu công giáo hay là những người
tin Chúa Kitô, hoặc sau cùng tất cả mọi người không trừ ai đều được ơn Thiên
Chúa kêu mời lãnh nhận phần rỗi. 17*
14. Tín hữu công giáo. 18* Vậy trước tiên,
Thánh Công Ðồng hướng lòng về các tín hữu công giáo. Dựa trên Thánh Kinh và
Thánh Truyền, Thánh Công Ðồng dạy rằng: Giáo Hội lữ hành này cần thiết cho phần
rỗi. Thực vậy, chỉ mình Chúa Kitô là Trung Gian và là đường cứu độ, Người hiện
diện giữa chúng ta trong thân thể Người là Giáo Hội; chính Người đã minh nhiên
công bố sự cần thiết của đức tin và của phép Thánh Tẩy (x. Mc 16,16; Gio 3,5),
đồng thời Người đã xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội mà mọi người phải bước
vào qua cửa phép Thánh Tẩy. Vì thế, những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được
Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà
vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì
không thể được cứu rỗi.
Ðược
kể là gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội, những ai lãnh nhận Thánh Thần
Chúa Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và các phương tiện cứu rỗi được thiết lập
trong Giáo Hội; và nhờ các mối liên lạc do việc tuyên xưng đức tin, các bí
tích, việc cai trị của Giáo Hội và sự hiệp thông, họ liên kết với Chúa Kitô
trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ Giáo Hoàng và các Giám Mục. Dù
được tháp nhập vào Giáo Hội, nhưng nếu không kiên trì sống trong đức ái thì vẫn
không được cứu rỗi, vì tuy "thể xác" họ thuộc về Giáo Hội, nhưng
"tâm hồn" họ không ở trong Giáo Hội 12. Nhưng các con cái
của Giáo Hội phải nhớ rằng, địa vị cao trọng của họ không phải do công đức
riêng mình, nhưng do đặc ân của Chúa Kitô; nếu họ không đáp lại hồng ân ấy bằng
tư tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ không được cứu rỗi mà còn bị
xét xử nghiêm khắc hơn 13.
Phần những người dự tòng, nhờ Thánh Thần
thúc đẩy, nếu minh nhiên xin gia nhập Giáo Hội, thì do chính ước muốn ấy, họ đã
được kết hợp cùng Giáo Hội rồi; và Giáo Hội là Mẹ hiền yêu thương săn sóc họ
như con cái mình. 9*
15. Giáo hội và Kitô hữu không công
giáo.
Với những kẻ đã lãnh phép Thánh Tẩy, mang danh hiệu Kitô hữu, nhưng không tuyên
xưng đức tin trọn vẹn, hoặc không hiệp thông với đấng kế vị Thánh Phêrô, Giáo Hội
vẫn biết mình có liên hệ với họ vì nhiều lý do 14. Thực vậy, có nhiều
người cung kính lấy Thánh Kinh làm mẫu mực cho lòng tin và đời sống, giữ đạo
cách nhiệt thành, thành thực, hết lòng tin kính Chúa Cha toàn năng, và Chúa
Kitô, Ðấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa 15. Ðược bí tích Thánh Tẩy ghi ấn, họ kết hợp
với Chúa Kitô, họ còn công nhận và lãnh một số bí tích khác trong Giáo Hội, hoặc
trong các cộng đồng Giáo Hội của họ. Nhiều người trong họ còn có chức giám mục,
họ vẫn cử hành bí tích Thánh Thể và tôn kính Ðức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa 16. Họ cũng hiệp
thông trong lời cầu nguyện và các việc lành thiêng liêng khác; hơn nữa, họ thực
sự kết hợp trong Chúa Thánh Thần, Ðấng cũng dùng ân huệ và thánh sủng tác động
trong họ nhờ thần lực thánh hóa của Ngài, và đã củng cố một số người trong họ
đi đến chỗ đổ máu tử đạo. Vì thế, Thánh Thần thúc giục hết thảy các môn đệ Chúa
Kitô ước muốn và hành động để tất cả được an bình hiệp nhất trong một đàn chiên
dưới quyền một Chủ Chăn duy nhất 17, theo cách thức Chúa Kitô đã vạch ra. Ðể
được vậy, Giáo Hội, Mẹ hiền không ngừng cầu nguyện, hy vọng và hành động, cũng
như khuyên giục con cái thanh tẩy và canh tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu
sáng rạng ngời hơn trên khuôn mặt Giáo Hội. 20*
16. Giáo hội và những người không thuộc
Kitô giáo.
Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc Âm cũng được an bài bằng nhiều cách để
thuộc về Dân Thiên Chúa 18. Trước tiên phải kể dân tộc đã lãnh nhận lời
hứa và giao ước, mà bởi dân ấy, Chúa Kitô đã sinh ra theo thể xác (x. Rm
9,4-5). Họ là dân rất được yêu quí, bởi đã được tuyển chọn vì cha ông họ: Thiên
Chúa không ân hận gì vì đã ban ơn và kêu gọi họ (x. Rm 11,28-29). Nhưng kế hoạch
cứu độ cũng còn bao hàm những ai nhận biết Ðấng Tạo Hóa: trước tiên phải kể đến
người Hồi Giáo; họ xưng rằng họ giữ đức tin của Abraham; cùng với chúng ta, họ
thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Ðấng sẽ phán xét loài người trong ngày
sau hết. Những kẻ đang tìm kiếm Thiên Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng,
Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bởi vì
chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ
17,25-28), và vì là Ðấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x. 1Tm
2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo
Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn
thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng
dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi 19. Cả những kẻ vô
tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời
chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được
cứu rỗi. Thực vậy, Giáo Hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi họ như để chuẩn
bị họ lãnh nhận Phúc Âm 20, và như một ân huệ mà Ðấng soi sáng mọi
người ban cho hầu cuối cùng họ được sống. Nhưng thường con người bị ma quỉ gạt
gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự
giả dối, khiến họ phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21 và
25); hoặc vì họ sống chết như không có Thiên Chúa trên đời này, nên liều mình
rơi vào sự thất vọng tột độ. Vì hằng quan tâm làm vinh danh Thiên Chúa, và cứu
rỗi tất cả những người ấy và hằng nhớ lời Chúa truyền: "Hãy rao giảng Phúc
Âm cho mọi tạo vật" (Mc 16,15), nên Giáo Hội tận tâm lo lắng và cổ võ việc
truyền giáo. 21*
17. Tính cách truyền giáo của Giáo Hội. Như Chúa Cha sai
Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21) khi Người
phán: "Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con.
Và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,19-20). Lệnh
ấy, lệnh mà Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo Hội đã
nhận lãnh từ các Tông Ðồ để chu toàn khắp cõi đất (x. CvTđ 1,8). Vì thế, Giáo Hội
xem lời sau đây của Thánh Tông Ðồ như lời của mình: "Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Phúc Âm" (1Cor 9,16), và vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ
giả Phúc Âm cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình
tiếp tục việc rao giảng Phúc Âm. Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với
Ngài để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô làm
nguyên lý cứu độ cho cả thế giới. Bằng việc rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội sửa soạn
cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép
Thánh Tẩy, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân thể
Chúa Kitô, hầu nhờ đức ái, họ tăng triển mãi trong Người cho đến khi đạt tới
viên mãn. Thực ra, những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người,
hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội
không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng,
hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con người.
Mỗi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần truyền bá đức tin 21. Tuy bất cứ ai
cũng có thể ban phép Thánh Tẩy cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn
tất, xây dựng Nhiệm Thể bằng hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua
miệng tiên tri: "Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân;
khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta" (Mal 1,11) 22. Như thế Giáo Hội
vừa cầu nguyện vừa hoạt động để toàn thể vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân
Thể Chúa Kitô và Ðền Thờ Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Kitô là thủ lãnh muôn
loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng lên Chúa Cha Ðấng Tạo Thành vũ trụ. 22*
Chương III: Tổ Chức Phẩm Trật Giáo Hội Và Ðặc Biệt
Về Chức Giám Mục 23*
18. Lời mở đầu. Ðể chăn dắt và
phát triển Dân Thiên Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã thiết lập các chức vụ khác
nhau trong Giáo Hội hầu mưu ích cho toàn thân. Thực vậy, các thừa tác viên xử dụng
quyền bính thiêng liêng mà phục vụ anh em mình, để mọi người thuộc Dân Thiên
Chúa và đương nhiên hưởng phẩm giá Kitô hữu sẽ đạt đến phần rỗi, nhờ nỗ lực tiến
tới cùng một cứu cánh trong tự do và trật tự.
Bước theo dấu vết của Công Ðồng Vaticanô I,
Thánh Công Ðồng này cũng giảng dạy và tuyên bố rằng: Chúa Giêsu Kitô, Mục Tử
vĩnh cửu đã thiết lập Giáo Hội thánh thiện khi sai các Tông Ðồ như Chúa Cha đã
phái Người (Gio 20,21), và Người đã muốn các đấng kế vị, tức các Giám Mục, làm
chủ chăn trong Giáo Hội cho đến tận thế. Nhưng để Chức Giám Mục được duy nhất
và không bị phân chia, Chúa đã đặt Thánh Phêrô làm Thủ Lãnh các Tông Ðồ khác,
và trong Ngài, Chúa đã đặt nguyên lý cùng nền tảng vĩnh cửu và hữu hình của hiệp
nhất đức tin và hiệp thông 1. Thánh Công Ðồng một lần nữa nêu lên cho mọi
tín hữu tin vững vàng giáo lý về sự thiết lập, sự trường tồn, về quyền lực và
quan niệm của quyền tối thượng nơi Giáo Hoàng Rôma cùng quyền Giáo Huấn bất khả
ngộ của Ngài. Tiếp tục công trình đã khởi sự, Thánh Công Ðồng muốn công bố và
giải thích cho mọi người giáo lý về các Giám Mục, những đấng kế vị các Tông Ðồ
và cùng với đấng kế vị Thánh Phêrô, Ðại Diện Chúa Kitô 2, và là Thủ Lãnh của
toàn thể Giáo Hội hữu hình điều khiển gia đình Thiên Chúa hằng sống. 24*
19. Kêu gọi và thiết lập nhóm 12 Tông Ðồ. 25* Chúa Giêsu, sau khi
cầu nguyện lâu giờ cùng Chúa Cha, đã gọi đến với mình những kẻ Người muốn và
thiết lập mười hai người để chung sống với Người, cùng sai họ đi rao giảng Nước
Thiên Chúa (x. Mc 3,13-19; Mt 10,1-42); Người tổ chức (x. Lc 6,13) các Tông Ðồ
này theo cách thức một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững; Người chọn
Phêrô, một người trong số họ, làm đầu cộng đoàn ấy (x. Gio 21,15-17). Người sai
họ đến với con cái Israel trước tiên, rồi đến với tất cả các dân nước khác (x.
Rm 1,16), hầu, nhờ tham dự vào quyền bính của Người, các Tông Ðồ làm cho mọi
dân tộc nên môn đệ Người cùng thánh hóa và điều khiển họ (x. Mt 28,16-20; Mc
16,15; Lc 24,45-48; Gio 20,21-23), như thế, dưới sự hướng dẫn của Chúa, các
Ngài mở mang và chăn dắt Giáo Hội bằng việc phục vụ mọi ngày cho đến tận thế
(x. Mt 28,20). Ngày Lễ Hiện Xuống, các ngài được hoàn toàn kiên vững trong sứ mệnh
này (x. CvTđ 2,1-36), như lời Chúa hứa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của
Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ làm chứng về Thầy tại
Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa, Samaria, cho đến tận cùng trái đất" (CvTđ
1,8). Khi các Tông Ðồ rao giảng Phúc Âm khắp nơi (x. Mc 16,20) và có nhiều
thính giả đón nhận nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, các ngài qui tụ họ thành
Giáo Hội phổ quát, Giáo Hội này đã được Chúa thiết lập trên các Tông Ðồ và xây
dựng trên Thánh Phêrô, thủ lãnh của các ngài; và Chúa Giêsu Kitô là viên đá góc
cao cả của Giáo Hội ấy (x. Kh 21,14; Mt 16,18; Eph 2,20) 3. 26*
20. Các Giám Mục, kế nghiệp các Tông
Ðồ.
Sứ mệnh thần linh được Chúa Kitô trao phó cho các Tông Ðồ phải tồn tại cho đến
tận thế (x. Mt 28,20), bởi lẽ Phúc Âm mà các ngài có nhiệm vụ rao truyền là
nguyên lý ban sự sống toàn diện cho Giáo Hội qua mọi thời đại. Vì thế, các Tông
Ðồ đã quan tâm đặt người kế vị trong cái xã hội có phẩm trật này.
Thực
thế, không những các ngài có nhiều phụ tá giúp thi hành chức vụ 4, nhưng, để sứ mệnh
phó thác cho các ngài được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông Ðồ còn ủy
thác, như một di chúc, cho các cộng sự viên trực tiếp của mình, nhiệm vụ hoàn tất
và củng cố công trình các ngài đã khởi sự 5, đồng thời căn dặn
họ coi sóc tất cả các đoàn chiên, mà Chúa Thánh Thần đã đặt họ chăn dắt Giáo Hội
Chúa (x. CvTđ 20,28). Bởi vậy các ngài đề cử những người như thế, rồi ban quyền
chức cho họ, hầu khi các ngài qua đời, đã có những người xứng đáng nhận lãnh chức
vụ của các ngài 6. Giữa những chức vụ khác nhau được thi
hành trong Giáo Hội từ buổi sơ khai, theo chứng tá của truyền thống, chức vụ
chính yếu là chức vụ của những vị đã được bổ nhiệm lên Giám Mục; nhờ liên tục kế
vị từ buổi ban đầu, 7 các ngài vẫn có những
mầm mống hạt giống tông đồ 8. Như thế, theo chứng tá của Thánh Irêneô,
truyền thống tông đồ được biểu hiện trên khắp hoàn cầu 9 và được bảo tồn 10 nhờ những đấng được
các Tông Ðồ đặt làm Giám Mục và các vị kế nghiệp các ngài cho đến ngày nay.
Nhờ thế, các Giám mục đã nhận lãnh việc phục
vụ cộng đoàn với sự giúp đỡ của các linh mục và phó tế 11. Thay thế Thiên
Chúa, các ngài đứng đầu đàn chiên 12 mà các ngài là chủ
chăn, với tư cách là Thầy dạy giáo thuyết, tư tế lo phụng tự thánh và thừa tác
viên lãnh đạo 13, cũng như chức vụ mà Chúa đã trao phó
riêng cho Thánh Phêrô, Tông Ðồ Cả, và phải được trao lại cho các đấng kế vị
Phêrô, chức vị đó luôn tồn tại, cũng thế, chức vụ chăn dắt Giáo Hội của các
Tông Ðồ phải tồn tại và được thi hành liên tục do thánh chức Giám Mục 14. Vì thế, Thánh
Công Ðồng dạy rằng, chính Chúa đã lập các Giám Mục kế vị Tông Ðồ 15 làm mục tử Giáo Hội.
Bởi vậy, ai nghe lời các ngài là nghe lời Chúa Kitô, còn ai khinh dể các ngài
là khinh dể Chúa Kitô và Ðấng đã phái Chúa Kitô đến (x. Lc 10,16) 16. 27*
21. Chức Giám Mục có tính cách bí
tích.
Vậy, qua các Giám Mục được các linh mục trợ giúp, Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục Thượng
Phẩm, hiện diện giữa các tín hữu. Thực vậy, ngự bên hữu Chúa Cha, Người vẫn hiện
diện giữa cộng đoàn các linh mục của Người 17, nhưng nhất là qua
sự phục vụ quí hóa của các ngài, Chúa Kitô rao giảng lời Thiên Chúa cho các dân
nước và không ngừng ban phát các bí tích cho tín hữu. Nhờ nhiệm vụ làm cha của
các ngài (x. 1Cor 4,15), Chúa tháp nhập vào thân thể Người những chi thể mới nhờ
sự tái sinh siêu nhiên. Và sau cùng, nhờ sự khôn ngoan thận trọng của các ngài,
Chúa điều khiển và hướng dẫn dân tộc của Tân Ước trong cuộc lữ hành tiến về hạnh
phúc muôn đời. "Các mục tử này, được chọn để chăn dắt đoàn chiên Chúa, là
thừa tác viên của Chúa Kitô và ban phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. 1Cor
4,1); các ngài được ủy thác việc làm chứng Phúc Âm của ân sủng Thiên Chúa (x.
Rm 15,16; CvTđ 20,24) và việc thi hành công cuộc của Thánh Thần và của công lý
trong vinh quang (x. 2Cor 3,8-9).
Ðể chu toàn nhiệm vụ cao trọng ấy, các Tông
Ðồ được Chúa Kitô đổ tràn Thánh Thần cách đặc biệt (x. CvTđ 1,8; 2,4; Gio
20,22-23). Và các ngài thông truyền các ơn thiêng ấy cho các cộng sự viên khi đặt
tay trên họ (x. 1Tm 4,14; 2Tm 1,6-7). Và qua việc tấn phong Giám Mục, ơn thiêng
ấy được thông truyền cho đến chúng tôi 18. Thánh Công Ðồng dạy rằng, khi được tấn
phong, các Giám Mục nhận lãnh sự trọn vẹn của bí tích Truyền Chức Thánh mà tập
tục phụng vụ Giáo Hội và các Thánh Giáo Phụ gọi là chức linh mục tối cao và nhận
lãnh thực tại toàn vẹn của thánh vụ 19. Việc tấn phong Giám Mục trao ban nhiệm vụ
thánh hóa cũng như nhiệm vụ giảng dạy và cai trị; tuy nhiên, các nhiệm vụ ấy,
do bản tính, chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông với Thủ Lãnh và các phần tử
của Giám Mục Ðoàn. Thực vậy, truyền thống được diễn tả nhất là qua các nghi thức
phụng vụ và qua thói quen của Giáo Hội Ðông Phương cũng như Tây Phương cho thấy
rõ ràng là qua sự đặt tay và qua các lời tấn phong, ơn Chúa Thánh Thần được
thông ban 20 và ấn dấu thánh được
in 21 trên các Giám Mục,
nên các ngài thi hành nhiệm vụ của chính Chúa Kitô là Thầy, Chủ Chăn và Linh Mục,
và hoạt động nhân danh Người 22 một cách cao quí và
hữu hình. Các Giám Mục có phận sự nhận vào Giám Mục Ðoàn, nhờ bí tích Truyền Chức
Thánh, những người mới được tuyển chọn. 28*
22. Giám Mục Ðoàn và vị Thủ Lãnh. 29* Thánh Phêrô và các
Tông Ðồ khác tạo thành một cộng đoàn Tông Ðồ duy nhất theo như Chúa đã ấn định;
tương tự như thế, Giáo Hoàng Roma, Ðấng kế vị Phêrô, cùng với các Giám Mục là
những người kế vị các Tông Ðồ đều liên kết với nhau. Ðặc tính và bản chất cộng
đoàn của hàng giám mục được biểu lộ qua luật lệ cổ truyền: theo đó Giám Mục
trên khắp hoàn cầu thông hiệp với nhau và với Giám Mục Roma bằng mối dây hiệp
nhất, bác ái và bình an 23 và qua sự triệu tập
các Công Ðồng 24 để cùng nhau quyết
định những vấn đề quan trọng đặc biệt 25 sau khi Nghị Phụ đã
cân nhắc kỹ lưỡng 26. Bản chất ấy được xác nhận bởi việc triệu
tập các Công Ðồng Chung qua bao thời đại. Và bản chất cộng đoàn ấy cũng được một
tập truyền xa xưa công nhận, đó là việc nhiều Giám Mục được mời đến tấn phong một
người mới được chọn lên nhiệm vụ tối cao của chức linh mục. Người lãnh nhận bí
tích truyền chức và hiệp thông giáo phẩm với Thủ Lãnh cùng các phần tử trong Cộng
Ðoàn trở thành phần tử của Giám Mục Ðoàn.
Nhưng
cộng đoàn giám mục hoặc giám mục đoàn chỉ có quyền hành khi hiệp với Giáo Hoàng
Roma, đấng kế vị thánh Phêrô, Thủ Lãnh của cộng đoàn giám mục; nhưng quyền tối
thượng trên tất cả các Chủ Chăn và tín hữu của Giáo Hoàng Roma vẫn luôn luôn được
bảo toàn trọn vẹn. Thực vậy, do nhiệm vụ của mình, là Ðại Diện Chúa Kitô và Chủ
Chăn của toàn thể Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng Roma có một quyền bính trọn vẹn, tối
cao, phổ quát trên Giáo Hội, và bao giờ Ngài cũng được tự do thi hành quyền bính
ấy, Giám Mục Ðoàn kế vị cộng đoàn Tông Ðồ trong việc giáo huấn và chăn dắt,
chính trong Giám Mục Ðoàn mà cộng đoàn Tông Ðồ được trường tồn. Hiệp nhất với
Thủ Lãnh, tức Giáo Hoàng Roma, và không bao giờ tách rời khỏi Thủ Lãnh ấy, giám
mục đoàn cũng có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội 27, nhưng chỉ có thể
thi hành quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng Roma. Chúa đã đặt một
mình Phêrô làm đá nền, trao chìa khóa Giáo Hội cho một mình Ngài (x. Mt
16,18-19), cũng đã đặt Ngài là Chủ Chăn của toàn thể đàn chiên Chúa (x. Gio
21,15tt); những quyền tháo gỡ cầm buộc của Người đã ban cho Phêrô (x. Mt
16,19), hẳn cũng đã ban cho cả cộng đoàn Tông Ðồ hiệp nhất với Thủ Lãnh (x. Mt
18,18; 28,16-20) 28. Gồm nhiều phần khác nhau, cộng
đoàn giám mục diễn tả đặc tính đa dạng và phổ quát của Dân Thiên Chúa; đồng thời,
tụ họp dưới quyền thủ lãnh duy nhất, cộng đoàn giám mục diễn tả sự hiệp nhất của
đàn chiên Chúa Kitô. Trong cộng đoàn này, các Giám Mục, khi trung thành tôn trọng
quyền tối thượng và quyền điều khiển của vị Thủ Lãnh, các Ngài thi hành quyền
bính riêng để mưu ích cho tín hữu mình và cho toàn thể Giáo Hội, nhờ có Chúa
Thánh Thần không ngừng củng cố cơ thể và sự thuận hòa trong cơ thể ấy. Quyền
bính tối cao của giám mục đoàn trên toàn thể Giáo Hội được thi hành cách trọng
thể trong Công Ðồng Chung. Nhưng không bao giờ có Công Ðồng Chung nếu không được
Ðấng kế vị Thánh Phêrô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận; Ðức Giáo Hoàng Roma có đặc
quyền triệu tập, chủ tọa và phê chuẩn các Công Ðồng này 29. Hiệp nhất với
Giáo Hoàng, các Giám Mục trên khắp thế giới còn có thể thực hành quyền cộng
đoàn ấy, khi vị Thủ Lãnh cộng đoàn mời gọi các ngài cùng hành động cách cộng
đoàn, hay ít ra khi ngài ưng thuận hoặc tự do chấp nhận hành động hiệp nhất của
các Giám Mục rải rác để làm cho nó trở thành một hành động có tính cách cộng
đoàn thực sự. 30*
23. Mối liên lạc giữa các Giám Mục trong cộng đoàn. Sự hiệp nhất của
Giám Mục Ðoàn còn được biểu lộ qua mối tương giao giữa mỗi Giám Mục với các
Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát. Ðức Giáo Hoàng Roma, Ðấng kế vị
Phêrô, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu 30 của sự hiệp nhất giữa
các Giám Mục cũng như giữa các tín hữu. Còn mỗi Giám Mục là nguyên lý và nền tảng
hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương 31. Các Giáo Hội này
được thành lập theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát: chính nhờ và trong các Giáo Hội
ấy mà có một Giáo Hội công giáo, duy nhất 32. Vì thế mỗi Giám Mục
đại diện cho Giáo Hội mình, và tất cả các Giám Mục cùng với Giáo Hoàng đại diện
cho toàn thể Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu thương và hiệp nhất.
Mỗi Giám Mục được đặt
làm Thủ Lãnh một Giáo Hội địa phương, thực hành quyền mục vụ trên phần Dân
Thiên Chúa được trao phó cho mình, chứ không thực hành quyền mục vụ trên các
Giáo Hội địa phương khác, hoặc Giáo Hội phổ quát. Nhưng với tư cách là phần tử
giám mục đoàn, và là người kế vị hợp pháp các Tông Ðồ, mỗi Giám Mục, do sự
thành lập và giới lệnh của Chúa Kitô, có bổn phận 33 ân cần săn sóc đến
toàn thể Giáo Hội. Sự ân cần săn sóc đó, cho dầu không được thể hiện bằng một
hành động thuộc quyền tài thẩm, vẫn mang lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội phổ
quát. Thực vậy, tất cả các Giám Mục có nhiệm vụ phát huy và bảo vệ sự hiệp nhất
đức tin và kỷ luật chung của cả Giáo Hội, dạy cho tín hữu biết yêu mến toàn Nhiệm
Thể Chúa Kitô, nhất là các chi thể nghèo khó, đau khổ và đang chịu bách hại vì
sự công chính (x. Mt 5,10), sau cùng các ngài còn có nhiệm vụ phát huy mọi sinh
hoạt chung của toàn Giáo Hội, nhất là phát triển đức tin và làm cho ánh sáng
chân lý toàn vẹn chiếu soi trên mọi người. Ðàng khác, khi điều khiển khéo léo
Giáo Hội địa phương là một phần Giáo Hội phổ quát, dĩ nhiên các Giám Mục đã góp
phần hữu hiệu vào công ích của toàn Nhiệm Thể cũng là thân thể của các Giáo Hội 34.
Lo lắng rao truyền
Phúc Âm cho khắp thế giới là một bổn phận của cộng đoàn các Chủ Chăn. Chúa Kitô
đã ra lệnh chung cho tất cả các ngài và giao phó cho các ngài một bổn phận
chung, như Ðức Giáo Hoàng Coelestinô đã nhắc nhở các Nghị Phụ Công Ðồng Ephesô 35. Vì thế các Giám Mục,
trong phạm vi trách nhiệm riêng của các ngài cho phép, phải cộng tác với nhau
và với Ðức Giáo Hoàng là người được đặc biệt ủy thác nhiệm vụ cao cả truyền bá
danh hiệu Kitô hữu 36. Do đó, các Giám Mục phải dốc toàn lực
đóng góp cho các xứ truyền giáo nhiều thợ gặt, nhiều sự trợ giúp thiêng liêng
và vật chất, vừa bằng cách tự mình trực tiếp giúp đỡ, vừa khuyến khích các tín
hữu nhiệt thành cộng tác. Sau cùng, trong niềm cảm thông phổ quát của đức ái,
theo gương lành đáng kính của các thế kỷ đầu, các Giám Mục hãy sẵn lòng lấy
tình huynh đệ trợ giúp các Giáo Hội khác, nhất là những Giáo Hội gần nhất và
túng thiếu nhất.
Các Giáo Hội khác
nhau mà các Tông Ðồ và những đấng kế vị đã thành lập tại nhiều nơi khác nhau
theo dòng thời gian, Chúa Quan Phòng đã muốn tụ hợp lại thành nhiều nhóm được
liên kết ở tổ chức; các nhóm này có kỷ luật riêng, phụng vụ riêng, thừa hưởng
di sản thần học và thiêng liêng riêng mà không phương hại đến sự hiệp nhất đức
tin cũng như bản chất duy nhất và thần linh của Giáo Hội phổ quát. Trong các
Giáo Hội ấy, một vài Giáo Hội, nhất là những Giáo Hội cổ xưa do các Giáo Chủ
lãnh đạo, như các bà mẹ đức tin, đã sinh nhiều Giáo Hội khác như con cái mình,
và vẫn còn liên kết với nhau cho đến ngày nay bằng mối dây bác ái mật thiết và
bằng đời sống bí tích trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ lẫn nhau 37. Các Giáo Hội địa
phương tuy khác nhau như thế nhưng đều hướng về sự hiệp nhất, nên càng minh chứng
đặc tính công giáo của một Giáo Hội không phân chia. Cũng thế, ngày nay các Hội
Ðồng Giám Mục có thể góp phần phong phú bằng nhiều thể cách để cụ thể hóa tinh
thần cộng đoàn. 31*
24. Thừa tác vụ Giám Mục. 32* Chúa Giêsu, Ðấng được
ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, đã trao cho các Giám Mục, vì là những
người kế vị các Tông Ðồ, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo
vật, hầu mọi người được rỗi nhờ lãnh nhận đức tin, phép Thánh Tẩy, và việc chu
toàn giới răn Chúa (x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-16; CvTđ 26,17t). Ðể hoàn thành sứ
mệnh đó, Chúa Kitô đã hứa ban Thánh Thần từ trời xuống, để nhờ sức mạnh của
Thánh Thần, các ngài làm chứng cho Chúa Kitô đến tận cùng trái đất, trước mọi
dân nước và vua chúa (CvTđ 1,8; 2,1tt.; 9,15). Nhiệm vụ Chúa đã trao phó cho
các chủ chăn của dân Người thực là một việc phục vụ, mà Thánh Kinh gọi rõ ràng
là "diakonia" nghĩa là thừa tác vụ (x. CvTđ 1,17 và 25; 21,19; Rm
11,13; 1Tm 1,12).
Chức vụ bổ nhiệm
theo giáo luật được trao cho các Giám Mục hoặc theo tập tục hợp pháp chưa bị
quyền tối thượng và phổ quát của Giáo Hội đoạn tiêu, hoặc theo các luật lệ được
Giáo Hội ban hành hay thừa nhận, hoặc trực tiếp do chính đấng kế vị Phêrô; nếu
Ðức Giáo Hoàng phản đối hoặc từ chối không cho hiệp thông với Tòa Thánh, thì
các Giám Mục không thể được lãnh nhận chức vụ 38. 33*
25.
Nhiệm vụ giáo huấn. Việc rao giảng Phúc Âm 39 là một nhiệm vụ trổi
vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám Mục, Giám Mục là những người rao
truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Kitô, Giám Mục là những tiến
sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Kitô, giảng dạy cho những kẻ được
trao phó cho các Ngài, một đức tin phải được xác tín và phải được áp dụng vào
các phong tục, và làm sáng tỏ đức tin đó bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Các
Ngài rút ra những cái mới cái cũ trong kho tàng Mạc Khải (x. Mt 13,52) để làm
cho đức tin trổ sinh hoa trái, và luôn tỉnh thức loại bỏ mọi lầm lạc đang đe dọa
đàn chiên mình (x. 2Tm 4,1-4). Mọi người phải kính trọng các Giám Mục như những
chứng nhân của chân lý thần linh và công giáo khi các ngài thông hiệp với Giáo
Hoàng Roma mà dạy dỗ, các tín hữu phải chấp nhận phán quyết của Giám Mục mình,
khi nhân danh Chúa Kitô, công bố những gì về đức tin và phong hóa, cũng như phải
tuân theo ngài với một lòng kính cẩn tuân phục. Mọi người phải lấy ý chí và lý
trí mà kính cẩn tuân phục một cách đặc biệt những giáo huấn chính thức của Giáo
Hoàng Roma, dù khi ngài không tuyên bố từ thượng tòa. Như vậy là kính trọng, nhận
biết giáo huấn tối thượng và chân thành chấp nhận các phán quyết của ngài theo
đúng tư tưởng và ý muốn ngài trình bày, đặc biệt biểu lộ qua tính chất các tài
liệu, hoặc qua việc ngài lập lại nhiều lần đề nghị một giáo thuyết, hay qua
cách diễn tả của ngài.
Tuy mỗi Giám Mục
riêng rẽ không có đặc quyền bất khả ngộ, nhưng dù tản mác khắp thế giới, nếu
thông hiệp với nhau và với đấng kế vị Thánh Phêrô, các ngài cùng đồng ý dạy
cách chính thức những điều thuộc đức tin và phong hóa là tuyệt đối buộc phải giữ,
thì lúc đó các ngài công bố cách bất khả ngộ giáo thuyết của Chúa Kitô 40. Ðiều đó còn rõ
ràng hơn, khi hợp nhau trong Công Ðồng Chung, các ngài là những tiến sĩ và thẩm
phán về đức tin và phong hóa cho toàn thể Giáo Hội. Phải tuân theo các định tín
của các ngài 41 với một lòng vâng
phục và với tinh thần đức tin.
Chúa Cứu Thế đã muốn
Giáo Hội Người bất khả ngộ khi xác định giáo thuyết về đức tin và phong hóa; ơn
bất khả ngộ đó có phạm vi rộng rãi tùy theo kho tàng Mạc Khải mà Giáo Hội phải
bảo toàn cách cẩn trọng và phải trình bày cách trung thực. Giám Mục Roma, vị thủ
lãnh của Giám Mục Ðoàn hưởng ơn bất khả ngộ đó do nhiệm vụ của Ngài khi với tư
cách là mục tử và tiến sĩ tối cao của mọi Kitô hữu, ngài củng cố anh em mình vững
mạnh trong đức tin (x. Lc 22,32), công bố giáo thuyết về đức tin và phong hóa bằng
một phán quyết chung thẩm 42. Vì thế, các phán quyết của ngài tự nó, chứ
không do sự đồng ý của Giáo Hội, phải được coi là không thể sửa đổi, vì đó là
những phán quyết được công bố dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, mà Chúa đã hứa
ban cho ngài qua Thánh Phêrô nên không cần ai khác chấp thuận và không nại tới
phán đoán nào khác. Khi đó Giáo Hoàng Roma không phán quyết với tư cách cá
nhân, nhưng trình bày và bảo vệ giáo thuyết đức tin công giáo với tư cách là thầy
dạy tối cao của toàn thể Giáo Hội; nơi ngài đặc biệt có ơn bất khả ngộ của
chính Giáo Hội 43. Ơn bất khả ngộ của chính Giáo Hội cũng hiện
hữu nơi Giám Mục Ðoàn khi các ngài xử dụng quyền giáo huấn tối thượng cùng với
đấng kế vị Thánh Phêrô. Do tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, Giáo Hội
không thể không chấp nhận những phán quyết đó, và Chúa Thánh Thần bảo vệ và
phát triển toàn thể đàn chiên Chúa Kitô trong sự hợp nhất đức tin 44.
Khi
Giáo Hoàng Roma, hoặc Giám Mục Ðoàn cùng với ngài, phán quyết một điều gì, thì
các ngài tuyên bố điều ấy theo chính Mạc Khải mà các vị ấy phải trung thành
tuân giữ. Mạc Khải trong Kinh Thánh hay trong Thánh Truyền đều được truyền lại
trọn vẹn nhờ sự kế vị hợp pháp các Giám Mục và nhất là nhờ sự quan tâm của
chính Giáo Hoàng Roma. Nhờ Thánh Thần Chân Lý, Mạc Khải ấy được gìn giữ cách cẩn
trọng và trình bày cách trung thực 45. "Ðể có thể khảo sát đứng đắn và trình
bày cách thích hợp Mạc Khải này, Ðức Giáo Hoàng và các Giám Mục làm việc cẩn thận
bằng phương tiện thích hợp, tùy theo nhiệm vụ và tầm quan trọng của sự việc" 46; nhưng các ngài
không nhận được một Mạc Khải công khai mới nào thêm vào kho tàng thần khải của
đức tin47. 34*
26. Nhiệm vụ thánh hóa. Giám Mục, bởi nhận
lãnh bí tích Truyền Chức Thánh cách viên mãn, là "người quản lý ơn sủng của
chức linh mục tối cao" 48, nhất là trong hy lễ tạ ơn do chính ngài
dâng hoặc lo liệu cho có lễ dâng 49, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động và tăng
triển. Giáo Hội Chúa Kitô thực sự hiện diện trong mọi đoàn thể tín hữu địa
phương hợp pháp. Những đoàn thể này, vì hợp nhất với các chủ chăn, nên trong
Tân Ước cũng được gọi là Giáo Hội 50. Thực vậy, trong phần đất mình, mỗi đoàn
thể là Dân Tộc Mới được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự viên
mãn đầy tràn (x. 1Th 1,5). Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ hợp lại nhờ sự
rao giảng Phúc Âm Chúa Kitô, và mầu nhiệm Tiệc Ly của Chúa được cử hành "để
nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể" 51. Mỗi lần Giám Mục
cử hành nhiệm vụ 52 với cộng đoàn tụ hợp
quanh bàn thờ, đó là biểu hiệu đức ái và "sự hiệp nhất của nhiệm thể, và nếu
thiếu sự hiệp nhất đó, không thể có ơn cứu rỗi" 53. Chúa Kitô vẫn hiện
diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ
thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông
truyền 54. Bởi vì "việc
tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi
chúng ta thành Ðấng mà chúng ta lãnh nhận" 55.
Mọi
việc cử hành hợp pháp hy lễ tạ ơn đều do Giám Mục điều khiển; ngài là người
lãnh nhận nhiệm vụ dâng lên nhan uy linh Chúa sự thờ phượng của Kitô giáo và có
phận sự điều hành việc thờ phượng đó theo đúng giới răn Chúa và lề luật Giáo Hội.
Ngài dùng phán quyết riêng để xác định những lề luật đó cho giáo phận mình.
Như thế, khi cầu
nguyện và làm việc cho dân chúng, các Giám Mục đổ đầy tràn trên họ, dưới nhiều
hình thức, những ơn lành do sự thánh thiện sung mãn của Chúa Kitô. Bằng thừa
tác vụ lời Chúa, các ngài thông truyền cho tín hữu sức mạnh của Thiên Chúa hầu
cứu rỗi họ (x. Rm 1,16). Các ngài thánh hóa giáo hữu bằng các bí tích mà với
quyền giám mục, các ngài lo ban phát cách đều đặn và phong phú 56. Các ngài xác định
việc cử hành bí tích Thánh Tẩy là bí tích ban quyền tham dự vào chức linh mục
vương giả của Chúa Kitô. Chính các ngài là thừa tác viên căn nguyên của bí tích
Thêm Sức, là người truyền các chức thánh, ra qui luật về phép Giải Tội và tận
tình khuyên bảo, giáo huấn giáo dân để họ kính cẩn và tin tưởng chu toàn phận sự
họ trong phụng vụ và nhất là trong Thánh Lễ hy tế. Sau cùng, các ngài phải làm
gương cho những kẻ thuộc quyền bằng lời ăn tiếng nói của mình. Trong cách sống,
các ngài phải xa tránh mọi điều ác, và với ơn Chúa giúp, cố gắng hoàn thiện
theo hết khả năng, để cùng với đoàn chiên Chúa trao phó, đạt tới đời sống vĩnh
cửu 57. 35*
27.
Nhiệm vụ cai quản. Là đại diện và sứ giả Chúa Kitô, các Giám Mục điều
khiển Giáo Hội địa phương mà Chúa đã ủy thách cho 58, nhờ lời khuyên bảo,
khuyến khích, gương lành, và còn bằng uy thế cùng quyền bính thánh thiện nữa.
Thực vậy, các ngài chỉ dùng quyền bính để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và
thánh thiện, và luôn tâm niệm rằng: kẻ cao trọng hãy nên như kẻ rốt hết, người
làm chủ hãy nên như tôi tớ (x. Lc 22,26-27). Quyền bính các ngài đích thân thi
hành nhân danh Chúa Kitô, là quyền bính riêng biệt, thông thường và trực tiếp;
nhưng việc thi hành cuối cùng còn lệ thuộc vào quyền tối cao của Giáo Hội, và
có thể bị giới hạn phần nào vì lợi ích của Giáo Hội hay của các tín hữu. Với
quyền bính ấy, các Giám Mục có quyền thiêng liêng và trước mặt Chúa có nhiệm vụ
đặt ra các luật lệ cho những người thuộc quyền, xét xử và qui định tất cả những
gì liên hệ tới việc thờ phượng và việc tông đồ.
Chính các Giám Mục
được trao phó trọn vẹn trách nhiệm mục vụ, tức là thường xuyên và hàng ngày săn
sóc con chiên mình. Không được coi các ngài như những đại diện của Giáo Hoàng
Roma, vì các ngài thi hành quyền bính riêng của mình và thực sự là thủ lãnh của
các dân mà các ngài cai quản 59. Vì thế, quyền bính Giám Mục không bị quyền
tối cao và phổ quát làm giảm bớt, nhưng trái lại còn được nâng đỡ, củng cố và bảo
đảm 60, vì Chúa Thánh Thần
hằng duy trì thể thức cai quản do Chúa Kitô thiết lập trong Giáo Hội.
Ðược Chủ sai đi cai
quản gia đình mình, Giám Mục phải chiêm ngắm gương mẫu Chúa Chiên Lành, Người đến
để phục vụ chứ không phải để được phục vụ (x. Mt 20,28; Mc 10,45) và hiến mạng
sống mình vì con chiên (x. Gio 10,11). Ðược chọn giữa loài người và đầy yếu
hèn, ngài có thể cảm thông nỗi đau khổ với những ai dốt nát và lầm lạc (x. Dth
5,1-2). Giám Mục không nên từ chối lắng nghe những kẻ thuộc quyền, nhưng hãy ân
cần săn sóc họ như những người con đích thực, và khuyên nhủ họ hăng hái cộng
tác với mình. Vì phải trả lẽ với Chúa về linh hồn con cái mình (x. Dth 13,17),
Giám Mục hãy cầu nguyện, rao giảng và làm mọi việc bác ái săn sóc họ và cả những
người chưa thuộc đoàn chiên duy nhất mà ngài cũng phải coi như được trao phó
cho mình trong Chúa. Như Tông Ðồ Phaolô, Giám Mục mắc nợ tất cả mọi người, cho
nên hãy hăng hái rao giảng Phúc Âm cho mọi người, (x. Rm 1,14-15) và khuyến
khích các tín hữu làm việc tông đồ và truyền giáo. Còn tín hữu phải liên kết với
Giám Mục như Giáo Hội gắn bó với Chúa Giêsu Kitô, và như Chúa Giêsu Kitô gắn bó
với Chúa Cha, hầu nhờ sự hiệp nhất ấy tất cả mọi sự đều hòa hợp 61 và trở nên phong
phú cho vinh quang Thiên Chúa (x. 2Cor 4,15). 36*
28. Các linh mục trong mối tương quan
với Chúa Kitô, với các Giám Mục, với anh em Linh Mục và với dân Chúa. 37* Ðược Chúa Cha thánh
hóa và phái đến thế gian (x. Gio 10,36), Chúa Kitô nhờ các Tông Ðồ, đã làm cho
các Giám Mục, những vị kế nghiệp các Tông Ðồ, có thể tham dự vào việc cung hiến
và vào sứ mạng của mình 62. Các Giám Mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của
mình một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo Hội theo từng cấp bậc. Như
thế, thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo Hội được thi hành bởi những
người có chức vụ khác nhau mà từ xưa được gọi là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế 63. Linh Mục, dù
không có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc Giám Mục khi thi hành quyền bính,
cũng hiệp nhất với Giám Mục trong tước vị Linh Mục 64. Nhờ bí tích Truyền
Chức Thánh 65, linh mục được
cung hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, thầy cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dth
5,1-10; 7,24; 9,11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc
thờ phượng Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước 66. Theo cấp bậc thừa
tác của mình tham dự vào nhiệm vụ Chúa Kitô, Ðấng trung gian duy nhất (x. 1Tm
2,5), các linh mục loan báo lời Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng các ngài thực
thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất là trong Thánh Lễ hoặc cộng đồng tạ ơn,
trong đó, các ngài thay thế Chúa Kitô 67 công bố mầu nhiệm của
Chúa, kết hợp với ước nguyện của tín hữu vào hy lễ của thủ lãnh và trong hy tế
Thánh Lễ, hiện tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Tân Ước 68, là của lễ tinh
tuyền đã một lần tự dâng hiến lên Chúa Cha (x. Dth 9,11-28), cho tới ngày Chúa
trở lại (x. 1Cor 11,26). Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ giao hòa và
an ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật. Linh mục dâng lên Chúa Cha các
nhu cầu và lời khẩn nguyện của các tín hữu (x. Dth 5,1-3). Trong quyền hạn
mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Chúa Kitô mục tử và thủ lãnh 69, tụ họp gia đình
Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn 70, và nhờ Chúa Kitô,
trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha. Linh mục thờ
lạy Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý giữa đoàn chiên (x. Gio 4,24).
Sau hết, vất vả truyền giáo và dạy dỗ (x. 1Tm 5,17), linh mục tin những gì ngài
đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật Chúa, dạy dỗ những gì mình tin và thực
hành những điều mình dạy 71.
Là cộng sự viên
khôn ngoan, là phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám Mục 72, linh mục được kêu
gọi để phục vụ Dân Thiên Chúa. Các ngài hợp với Giám Mục mình tạo thành linh mục
đoàn duy nhất với nhiều chức vụ khác nhau 73. Trong mỗi cộng
đoàn tín hữu địa phương, linh mục, là hiện thân của Giám Mục mà các ngài hằng
liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ cùng chia xẻ nỗi
lo lắng của Giám Mục và hằng ngày ân cần thi hành chức vụ ấy. Dưới quyền Giám Mục,
linh mục thánh hóa và dẫn dắt một phần đoàn chiên Chúa trao phó cho mình, làm
cho người ta thấy được Giáo Hội phổ quát ngay tại địa phương mình, góp phần hữu
hiệu vào việc xây dựng toàn thân thể Chúa Kitô (x. Eph 4,12). Luôn mưu cầu ích
lợi cho con cái Thiên Chúa, linh mục phải hăng hái tham gia công cuộc mục vụ của
cả giáo phận, hơn nữa của toàn thể Giáo Hội. Vì tham dự vào chức linh mục và
vào sứ mệnh của Giám Mục, linh mục phải thực sự xem ngài như cha mình và phải
kính cẩn vâng phục ngài. Phần Giám Mục cũng phải coi sóc các linh mục cộng tác
với mình như con cái và bạn hữu, như Chúa Kitô không gọi môn đệ là tôi tớ,
nhưng là bạn hữu (x. Gio 15,15). Do đó, tất cả các linh mục triều cũng như
dòng, bởi chức thánh và thừa tác vụ, được nối kết vào Giám Mục Ðoàn và phục vụ
cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội tùy theo ơn gọi và ân sủng riêng.
Một
tình huynh đệ thắm thiết nối kết tất cả các linh mục với nhau vì cùng tham dự một
chức thánh và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ đó phải bộc lộ một cách tự phát
tự nguyện qua sự tương trợ cả tinh thần lẫn vật chất, trong phạm vi mục vụ cũng
như trong phạm vi cá nhân, trong các buổi hội họp, cũng như trong sự hiệp thông
với nhau qua đời sống, việc làm và tình bác ái.
Linh
mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh ra
họ cách thiêng liêng nhờ phép Thánh Tẩy và giáo huấn (x. 1Cor 4,15 và 1P 1,23).
Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng
đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo Hội Thiên Chúa
(x. 1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là
Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân,
cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực
sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như
mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận
phép Thánh Tẩy trong Giáo Hội công giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các
bí tích hay nhất là đã mất đức tin.
Ngày nay, vì nhân loại ngày càng hiệp nhất
về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các linh mục càng phải loại trừ mọi mầm mống
chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục
và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa. 38*
29. Các phó tế. Ở bậc thấp hơn của hàng giáo phẩm, có các
phó tế, những người đã được đặt tay "không phải để lãnh nhận chức vụ linh
mục, nhưng là để phục vụ" 74. Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ,
các phó tế, hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa bằng
việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có thẩm quyền chỉ định,
các phó tế được cử hành trọng thể phép Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa,
nhân danh Giáo Hội chứng kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp
hối, đọc Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ tọa việc
phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí tích, chủ tọa lễ nghi
tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo việc bác ái và việc quản trị, phó tế
phải nhớ lời nhắn nhủ của Thánh Polycarpô: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt
thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người"75.
Thực ra, trong nhiều nơi, vì kỷ luật hiện
hành của Giáo Hội La tinh có thể làm trở ngại việc chu toàn những nhiệm vụ đó,
những nhiệm vụ rất cần thiết cho đời sống Giáo Hội, nên trong tương lai, chức
phó tế có thể được tái lập như một bậc riêng và vĩnh viễn thuộc phẩm trật. Các
nhóm Giám Mục địa phương, dưới những hình thức khác nhau, với sự chấp thuận của
chính Ðức Giáo Hoàng, có đủ thẩm quyền để xét xem có nên bổ nhiệm các phó tế ấy
và bổ nhiệm ở đâu, để họ coi sóc các linh hồn. Với sự đồng ý của Ðức Giáo
Hoàng, các Ngài có thể phong chức phó tế cho những người đàn ông đứng tuổi, dù
đã kết hôn, cũng như cho các thanh niên có khả năng, nhưng các thanh niên này
phải giữ vững luật độc thân. 39*
Chương IV: Giáo Dân 40*
30. Giáo dân trong Giáo Hội. Sau khi xác định
những chức vụ của các phẩm trật, Thánh Công Ðồng sẵn lòng đề cập đến bậc sống của
những Kitô hữu được gọi là giáo dân. Mặc dầu tất cả những gì nói về Dân Thiên
Chúa đều có liên quan đến giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ, nhưng có một số điều
đặc biệt thuộc về giáo dân nam nữ, vì địa vị và sứ mệnh của họ; những điều mà
hoàn cảnh đặc biệt của thời đại chúng ta đòi hỏi phải tìm hiểu nền tảng chung
cách thấu đáo hơn. Thực thế, các chủ chăn của Dân Thánh ấy biết rõ giáo dân
giúp ích rất nhiều cho toàn thể Giáo Hội. Các Ngài biết rằng Chúa Kitô không đặt
các Ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ vụ cứu độ của Giáo Hội đối với thế
giới; nhưng nhiệm vụ cao cả của các Ngài là chăn dắt tín hữu và nhận biết các
phận sự và đoàn sủng nơi họ, để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung,
tùy theo cách thức của mình. Vì thế, mọi người "phải lấy bác ái mà thực
hành chân lý, nhờ mọi sự hãy lớn lên trong Ðấng làm đầu là Chúa Kitô; nhờ Người,
toàn thân thể được phối hợp và kết tụ bằng sự liên lạc tương trợ nhau, tùy theo
công dụng khả năng từng phần tử, khiến thân thể được tiến triển hầu xây dựng
trong đức ái" (x. Eph 4,15-16).
31. Bản tính và sứ mạng giáo dân. Danh hiệu giáo
dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu
trì được Giáo Hội công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân
Thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức
vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ; họ là những
người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần
gian theo phận vụ riêng của mình.
Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt
và đặc thù của giáo dân. Thực vậy các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có
thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi
đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là sứ vụ thánh. Phần các tu
sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quí rằng người ta không
thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần
các mối phúc thật. Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên
Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống
giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần
thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những
điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự
hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng
việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời,
và nhất là với bằng chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ
có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật
thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo Thánh Ý Chúa
Kitô, hầu ca tụng Ðấng Tạo Hóa và Ðấng Cứu Ðộ. 41*
32. Ðịa vị giáo dân trong lòng Dân
Thiên Chúa.
Giáo Hội do Chúa thiết lập được tổ chức và điều khiển theo nhiều thể thức khác
biệt rất lạ lùng. "Vì như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể,
nhưng mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người
song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể lẫn
nhau" (Rm 12,4-5).
Thế
nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: "chỉ có một Thiên
Chúa, một đức tin, một Thánh Tẩy" (Eph 4,5), cùng chung một phẩm giá của
những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con
cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất
và một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội, không
còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi
lẽ "không còn là người Do Thái hoặc Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ,
vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô" (Gal 3,38, bản Hy Lạp;
x. Col 3,11).
Vì
thế, tuy trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng
được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của
Thiên Chúa (x. 2P 1,1). Mặc dù theo ý Chúa Kitô, có những người được chọn làm
tiến sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng
giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm
giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô. Thực vậy,
nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức thánh với các thành phần khác của
Dân Thiên Chúa thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn
và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ chung. Các chủ
chăn trong Giáo Hội noi gương Chúa phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu
khác; phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác với các chủ chăn và những người giảng
dạy. Như thế, tuy khác biệt nhau, nhưng tất cả đều làm chứng sự duy nhất kỳ diệu
trong Thân Thể Chúa Kitô. Thực vậy, chính sự khác biệt về ân huệ, chức vụ và hoạt
động lại là mối dây kết hợp con cái Thiên Chúa làm một, vì "mọi sự ấy là
công trình của cùng một Thánh Thần duy nhất" (1Cor 12,11).
Vì thế, nhờ lòng ưu ái của Thiên Chúa, giáo
dân được làm em Chúa Kitô, Ðấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục
vụ, dù Người là Chúa tể muôn loài (x. Mt 20,28). Cũng vậy, họ làm em những người
đã lãnh nhận chức vụ thánh, những kẻ đang lấy quyền Chúa Kitô mà giảng dạy,
thánh hóa và cai quản để chăn dắt gia đình Chúa, hầu mọi người chu toàn giới luật
mới là luật bác ái. Thánh Augustinô đã dùng những lời tuyệt diệu này để nói lên
điều đó: "Làm Giám Mục cho anh em, tôi rất sợ; là tín hữu với anh em, tôi
rất an tâm. Giám Mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám Mục là một
danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem ơn cứu độ" 1. 42*
33. Tông đồ giáo dân. Giáo hữu được qui
tụ trong Dân Thiên Chúa và cấu tạo thành Thân Thể duy nhất của Chúa Kitô dưới
quyền của một Ðầu duy nhất; dù họ là ai, họ vẫn được kêu gọi dùng hết sức lực
đã lãnh nhận do lòng từ ái của Ðấng Tạo Hóa và do ân huệ Ðấng Cứu Thế để như những
chi thể sống động, phát triển và thánh hóa Giáo Hội không ngừng.
Vì
thế, giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội;
nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm
tông đồ; đàng khác các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng
trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh
hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho
Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ,
thì Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian 2. Như thế, vì những
ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động
cho chính sứ mệnh Giáo Hội, "tùy theo độ lượng ân sủng Chúa Kitô ban
cho" (Eph 4,7).
Ngoài
việc tông đồ này, một việc có liên quan đến mọi Kitô hữu không trừ ai, giáo dân
có thể còn được mời gọi góp phần trực tiếp hơn và bằng nhiều cách vào công cuộc
tông đồ của hàng giáo phẩm 3, giống như những tín hữu nam nữ đã chịu vất
vả vì Chúa Kitô để giúp đỡ Tông đồ Phaolô rao giảng Phúc Âm (x. Ph 4,3; Rm
16,3tt). Ðàng khác, họ có những khả năng mà Hàng Giáo Phẩm có thể dùng vào một
số phận vụ thuộc hàng giáo sĩ có mục đích thiêng liêng.
Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân
là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi
nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia
vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực họ và tùy nhu cầu của thời đại. 43*
34. Nhiệm vụ tư tế và phụng tự. 44* Chúa Giêsu Kitô,
Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng
tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không
ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo.
Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự
mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ
tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu
rồi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được
Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần
sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn. Thực vậy, mọi hoạt động, kinh
nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm
thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh
Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất
cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô (x.
1P 2,5), vì những của lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình
Thánh Chúa khi cử hành lễ tạ ơn. Như thế, giáo dân cung hiến thế giới này cho
Thiên Chúa nhờ biết phụng thờ Ngài bằng hành động thánh thiện khắp nơi. 45*
35. Nhiệm vụ ngôn sứ và chứng nhân. Chúa Kitô, vị
Tiên Tri cao cả, Ðấng đã dùng chứng tá đời sống và sức mạnh của lời nói để công
bố Nước Chúa Cha; Người chu toàn chức vụ tiên tri, cho đến lúc sự vinh hiển của
Người tỏ ra trọn vẹn; Người chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng giáo phẩm,
là những người nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy nhưng cũng nhờ các
giáo dân; sở dĩ Người đã đặt họ làm chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức
tin và ơn dùng ngôn từ nữa (x. CvTđ 2,17-18; Kh 19,10) là để sức mạnh Phúc Âm
sáng ngời trong đời sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội. Nếu giáo
dân vững lòng tin cậy mà lợi dụng thời gian hiện tại (x. Eph 5,16; Col 4,5) và
kiên trì trông đợi vinh quang một ngày kia sẽ đến (x. Rm 8,25), họ sẽ tỏ ra là
con cái của lời giao ước; nhưng niềm hy vọng đó, họ không nên giấu kín trong
lòng, trái lại họ phải diễn tả nó qua những cơ cấu của cuộc sống trần gian, bằng
cách hoán cải không ngừng và chiến đấu chống lại "bá chủ của thế gian tăm
tối này và bọn tà thần" (Eph 6,12).
Như
những bí tích của luật mới, là của ăn nuôi dưỡng đời sống và hoạt động tông đồ
của tín hữu, tiên báo trời mới và đất mới thế nào (x. Kh 21,1), thì giáo dân
cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều mình trông đợi như thế (x. Dth 11,1), nếu
họ không ngần ngại nối kết đời sống đức tin với việc tuyên xưng đức tin làm một.
Công cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống,
chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện
trong những hoàn cảnh chung của trần gian.
Có
một bậc sống rất giá trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc
biệt thánh hóa, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt
động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo
thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy;
nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và
cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan
truyền sức mạnh của nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh
phúc. Như thế bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian
nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý.
Vì thế, giáo dân có thể và phải có một hoạt
động cao quí là truyền bá Phúc Âm cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng những
việc trần thế. Dù khi thiếu thừa tác viên có chức thánh hoặc khi các ngài bị
ngăn trở vì bách hại, có những giáo dân thay thế các ngài thi hành một vài phận
vụ thánh tùy khả năng của họ; dù có một số giáo dân đã dốc toàn lực vào việc
tông đồ, tất cả vẫn phải cộng tác vào việc mở mang và phát triển Nước Chúa Kitô
trên trần gian. Vì vậy giáo dân phải khéo léo tìm hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa
mạc khải, và tha thiết nài xin Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan cho mình. 46*
36. Ðịa vị vương giả. Chúa Kitô đã vâng
lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh (x. Ph 2,8-9), và đã
vào trong vinh quang nước Người. Mọi vật đều suy phục Người, cho đến khi Người
cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả mọi sự (x.
1Cor 15,27-28). Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng
sự tự do vương giả, và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời
sống từ bỏ và thánh thiện (x. Rm 6,12), hơn nữa để, khi phụng sự Chúa Kitô nơi
tha nhân, họ khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Ðức Vua, Ðấng
mà phụng sự Người là thống trị. Thực thế, Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở
rộng nước Người, nước của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của
công lý, tình yêu và hòa bình 4; trong nước này,
chính tạo vật cũng được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa (x. Rm
8,21). Lời Chúa hứa thật trọng đại và lệnh Người truyền cho các môn đệ thật lớn
lao: "Thực vậy, tất cả mọi sự đều thuộc về anh em, còn anh em thuộc về
Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa" (1Cor 3,23).
Vì
thế, tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, giá trị của chúng, và
cùng đích của chúng là ca tụng Thiên Chúa; đồng thời phải giúp nhau sống đời
thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa
Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa
bình. Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát
đó. Nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần thế, nhờ các hoạt động của họ,
những hoạt động được ân sủng Chúa Kitô nâng lên bậc siêu nhiên, giáo dân hãy
đem toàn lực hợp tác để nhờ lao công con người, kỹ thuật và văn hóa nhân loại
khai thác những của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi người và phân chia
cân xứng hơn giữa họ theo ý định của Ðấng Tạo Hóa và sự soi sáng của Ngôi Lời
Ngài; và tùy cách thức riêng của chúng, chúng giúp phát triển toàn diện sự tự
do của con người và sự tự do của Kitô hữu. Như thế, nhờ các phần tử của Giáo Hội,
Chúa Kitô sẽ đem ánh sáng cứu độ của Người chiếu soi toàn thể nhân loại mỗi
ngày một hơn.
Ðàng
khác, khi các thể chế và cảnh sống của thế giới gây nên dịp tội, giáo dân phải
góp sức làm cho các thể chế và cảnh sống đó trở nên lành mạnh, để chúng phù hợp
với các tiêu chuẩn của đức công bình, và giúp phát huy việc luyện tập các nhân
đức hơn là ngăn trở chúng. Hành động như thế, giáo dân sẽ làm cho những giá trị
luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công trình của loài người. Và nhờ vậy,
cánh đồng thế giới mới được chuẩn bị kỹ càng hơn để đón nhận hạt giống Lời
Thiên Chúa, và nhiều cửa được mở rộng thêm hơn cho Giáo Hội để sứ điệp hòa bình
thấm nhập vào thế gian.
Chính công cuộc cứu độ đòi hỏi tín hữu phải
lưu tâm phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách một phần tử của
Giáo Hội, đâu là quyền lợi và nghĩa vụ với tư cách một phần tử trong xã hội
loài người. Họ phải cố gắng hòa hợp cả hai loại nghĩa vụ và bổn phận đó với
nhau, và hãy nhớ rằng trong mọi lãnh vực trần thế, lương tâm Kitô giáo phải
luôn hướng dẫn họ, vì không một hoạt động nào của con người, dù thuộc phạm vi
trần thế, có thể vượt khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa. Vì thế, trong thời đại
chúng ta, hơn bao giờ hết, người tín hữu cũng phải làm sáng tỏ sự phân biệt và
hòa hợp các nghĩa vụ và bổn phận này trong phương thức hành động của họ, để sứ
mệnh của Giáo Hội có thể đáp ứng những hoàn cảnh đặc biệt của thế giới ngày nay
cách trọn vẹn hơn. Thực vậy, nếu phải công nhận rằng xã hội trần gian, vì lo lắng
việc trần thế cách hợp pháp nên có quyền điều hành theo những qui tắc riêng biệt,
thì cũng phải loại bỏ cách chính đáng tà thuyến chủ trương xây dựng xã hội bất
cần đạo lý, và chủ trương chống lại hay hủy diệt tự do tín ngưỡng của người
công dân 5. 47*
37. Tương quan với hàng giáo phẩm. Như mọi Kitô hữu
khác, giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào
ơn trợ lực chứa đựng trong kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đặc biệt là Lời
Thiên Chúa và các bí tích 6. Như con cái Thiên Chúa và như anh em
trong Chúa Kitô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng
của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy
tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về
những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội 7. Họ nên thực hiện
điều đó, nếu cần, nhờ vào các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy;
và họ hãy luôn chân thành, can đảm và khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những
người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài.
Như
mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy
mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa
Kitô, đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo
Hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Kitô, Ðấng đã vâng lời cho đến chết, để
mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo
dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của
mình, để các ngài hoan hỷ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn
chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dth 13,17).
Phần
các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và
trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những
ý kiến khôn ngoan của họ, tin cẩn giao phó cho họ những công tác để họ phục vụ
Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa, các ngài cũng nên
khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận
xem xét, trong Chúa Kitô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ 8. Ðàng khác, các chủ
chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực
trần thế.
Họ hy vọng rằng, sự liên lạc mật thiết giữa
giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội: thực vậy, nhờ sự
liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng
say của họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ
chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có
thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như
trần thế; như vậy, toàn thể Giáo Hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ
chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian. 48*
38. Giáo dân, linh hồn của thế giới. Trước mặt nhân loại,
mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu, đồng
thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng
thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gal 5,22) và truyền bá cho thế
gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà
Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, "người Kitô hữu
hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống" 9. 49*
Chương V: Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong
Giáo Hội 50*
39. Sự thánh thiện trong Giáo Hội. Chúng tôi tin
Giáo Hội, một mầu nhiệm được Thánh Công Ðồng trình bày, có tính cách thánh thiện,
bất khả khuyết. Thực vậy, Chúa Kitô Con Thiên Chúa, Ðấng cùng với Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần, được ca tụng là "Ðấng thánh duy nhất" 1, đã yêu dấu Giáo Hội
như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (x. Eph 5,25-26). Người
kết hiệp với Giáo Hội như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm
vinh danh Thiên Chúa. Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội - hoặc thuộc hàng
giáo phẩm, hoặc được hàng giáo phẩm dìu dắt - đều được kêu gọi nên Thánh, như lời
Thánh Tông Ðồ dạy: "Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa" (1Th
4,3; x. Eph 1,4); sự thánh thiện này của Giáo Hội luôn được biểu lộ và phải được
biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự
thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt
tới Ðức Ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Ðặc biệt
hơn, sự thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời
khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô hữu thực hành các
lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được
GiáoHội công nhận; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một
bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo Hội. 51*
40. Mọi người được kêu gọi sống thánh
thiện.
Chúa Giêsu, thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy
cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực nào, một đời sống
thánh thiện mà chính Người vừa là Ðấng ban phát vừa là Ðấng hoàn tất: "Vậy
các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời" (Mt 5,48)
2. Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong
Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng
hết sức họ (x. Mc 12,30), và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ (x.
Gio 13,34; 15,12). Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa
Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các
môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở
nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự
đã trở nên thánh. Cho nên với ơn Chúa họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong
đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận. Họ được Thánh Tông Ðồ khuyên sống
"xứng đáng như những vị thánh" (Eph 5,3) và mặc lấy "lòng thương
xót, nhân hậu, khiêm nhường, tiết độ và nhẫn nại như những người đã được Thiên
Chúa chọn lựa, thánh hóa và yêu thương" (Col 3,12), và dùng hoa trái của
Thánh Thần để thánh hóa mình (x. Gal 5,22; Rom 6,22). Nhưng vì chúng ta ai cũng
có nhiều lầm lỗi (x. Giac 3,2), nên chúng ta luôn cần đến lòng nhân từ của
Thiên Chúa và hằng ngày phải cầu nguyện "xin Chúa tha nợ chúng tôi"
(Mt 6,12) 3.
Vì thế, mọi người đều thấy rõ ràng tất cả
các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự
viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Ðức Ái 4. Ngay trong xã hội
trần thế sự thánh thiện này cũng giúp người ta sống nhân đạo hơn. Ðể đạt được sự
trọn lành đó, tín hữu phải xử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban nhiều ít
tùy ý Người để trở nên giống Người khi theo vết chân Người, và khi thực hành
thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng tìm vinh danh Chúa và phục
vụ tha nhân. Như thế, sự thánh thiện của Dân Thiên Chúa sẽ sinh hoa trái dồi
dào, như lịch sử Giáo Hội đã từng minh chứng rõ ràng qua đời sống của bao vị
thánh. 52*
41. Nhiều hình thức thực hành sự
thánh thiện duy nhất. Những người được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn,
nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha, thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý,
noi gương Chúa Kitô nghèo khó, khiêm nhường và vác thập giá để xứng đáng dự phần
vào vinh quang của Người; tất cả những người ấy đều theo đuổi cùng một sự thánh
thiện tuy lối sống và nhiệm vụ của họ có khác nhau, cho nên mỗi người, tùy theo
ân sủng và nhiệm vụ mình, phải nhất quyết tiến bước bằng con đường đức tin sống
động, đức tin khơi động đức cậy và hoạt động nhờ đức ái.
Các
chủ chăn lo cho đoàn chiên Chúa Kitô phải là những người đầu tiên chu toàn thừa
tác vụ mình cách thánh thiện và hăng say, khiêm tốn và can đảm, noi gương vị
Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vị Chủ Chăn và Giám Mục chăm sóc linh hồn
chúng ta: làm như thế, các ngài sẽ tìm thấy nơi thừa tác vụ mình một phương thế
tuyệt diệu để thánh hóa. Ðược chọn để lãnh nhận trọn vẹn chức linh mục, các
ngài hưởng nhờ ơn bí tích để thi hành nhiệm vụ bác ái cao cả của vị chủ chăn 5, trong lời cầu
nguyện, bằng việc hy sinh, giảng dạy và bằng mọi hình thức chăm sóc và phục vụ
khác thuộc bổn phận của Giám Mục; các ngài đừng ngại hy sinh mạng sống vì con
chiên và trở nên mẫu mực cho đoàn chiên (x. 1P 5,3); sau cùng, các ngài làm cho
Giáo Hội ngày càng thánh thiện hơn bằng gương lành của các ngài.
Các
linh mục kết thành vòng hoa thiêng liêng của hàng Giám Mục 6 và thông phần vào
ân sủng thuộc chức vụ Giám Mục, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian vĩnh cửu duy nhất;
cũng như hàng Giám Mục, các linh mục phải gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha
nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hàng ngày; các ngài phải gìn giữ mối dây liên
lạc giữa hàng linh mục, phải được dư đầy của cải thiêng liêng, phải là những chứng
nhân sống động của Thiên Chúa trước mặt mọi người 7, và thi đua với những
vị linh mục mà qua các thế hệ, đã để lại những chứng tá thánh thiện sáng ngời
trong những việc phục vụ thường khiêm tốn và kín đáo. Các vị linh mục ấy được
ca tụng trong Giáo Hội Chúa. Linh mục có bổn phận dâng kinh nguyện và lễ vật
cho dân ngài và toàn thể Dân Thiên Chúa, các ngài phải ý thức điều các ngài làm
và sống xứng đáng hợp với những điều các ngài cử hành 8. Các linh mục phải
vượt qua những lo lắng tông đồ, những nguy hiểm và thử thách mà không để chúng
trở thành những chướng ngại, hầu tiến xa hơn trên đường thánh thiện nhờ biết
nuôi dưỡng và củng cố hoạt động của mình bằng việc chiêm niệm dồi dào. Như thế,
các ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ cho toàn thể Giáo Hội Chúa. Tất cả các linh mục,
nhất là những vị đặc biệt thụ phong để thành linh mục giáo phận, hãy nhớ rằng
việc trung thành kết hợp và quảng đại cộng tác với Giám Mục là phương tiện rất
tốt để thánh hóa chính mình.
Dự
phần cách đặc biệt vào sứ mệnh và ân sủng của chức linh mục thượng phẩm, còn có
những thừa tác viên ở bậc thấp hơn, trước hết là những vị Phó Tế; các Phó Tế
khi phục vụ các nhiệm tích của Chúa Kitô và Giáo Hội 9, phải giữ mình
tinh sạch khỏi mọi nết xấu, làm đẹp lòng Thiên Chúa và mưu cầu lợi ích cho nhân
loại (x. 1Tm 3,8-10 và 12-13). Những giáo sĩ được Chúa kêu gọi để thuộc riêng về
Chúa, và đang sửa soạn để lãnh nhận nhiệm vụ thừa tác viên, dưới sự coi sóc của
vị chủ chăn, các vị ấy phải để lòng trí xứng hợp với ơn gọi hết sức cao cả của
mình bằng cách cầu nguyện liên lỉ, yêu thương nhiệt thành, chỉ tưởng đến những
điều chân thật, chính đáng và lành thánh, và chu toàn mọi sự để làm vinh danh
Thiên Chúa. Thêm vào số người đó, còn có những giáo dân được Thiên Chúa chọn; họ
được Giám Mục gọi để dấn thân trọn vẹn vào việc tông đồ, và họ làm việc rất hữu
hiệu trong cánh đồng của Chúa 10.
Còn
bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô giáo, khi theo đuổi lối sống riêng của mình, nhờ ơn
Chúa, họ phải suốt đời nâng đỡ và trung thành yêu thương nhau; đối với con cái
mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những
học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi
người về mặt tình thương bền vững và quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm
chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo Hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ
và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương,
Người đã hiến mạng sống vì Hiền Thê 11. Dưới một hình thức khác, bậc quả phụ và độc
thân cũng nêu lên một gương tương tự: họ có thể góp phần không ít vào sự thánh
thiện và hoạt động của Giáo Hội. Còn những người thường làm lụng vất vả, công
việc của con người phải là phương thế để đào tạo chính mình, trợ giúp đồng loại,
thăng tiến toàn thể xã hội và tạo vật; và sau cùng, hân hoan trong niềm hy vọng
và kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau, với đức ái sống động, họ phải noi gương Chúa
Kitô, Ðấng đã làm việc tay chân và không ngừng cùng với Chúa Cha đem ơn cứu độ
cho mọi người; và nhờ công ăn việc làm, họ phải tiến xa hơn trên đường thánh
thiện, một sự thánh thiện còn có tính cách tông đồ.
Ước
gì những người chịu đau khổ vì nghèo đói, tật nguyền, đau yếu và những thử
thách khác, hay bị bách hại vì sự công chính cũng biết kết hợp cách đặc biệt với
Chúa Kitô, Ðấng đã chịu đau khổ để cứu chuộc thế giới, vì trong Phúc Âm Chúa đã
tuyên bố họ là người có phúc, và vì "Thiên Chúa của mọi ân phúc, Ðấng đã gọi
chúng ta đến sự vinh hiển muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô, sau khi chúng ta chịu
đau khổ trong một thời gian ngắn, chính người sẽ làm cho chúng ta hoàn hảo, vững
chắc và mạnh mẽ" (1P 5,10).
Vì thế, trong và nhờ những trạng huống, chức
nghiệp hay hoàn cảnh của cuộc sống, tất cả mọi Kitô hữu ngày càng được thánh
thiện hơn, nếu họ biết tin tưởng lãnh nhận tất cả mọi sự từ tay Cha trên Trời
và biết cộng tác với thánh ý Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi người biết tình
yêu Thiên Chúa đối với thế giới trong chính việc họ phục vụ trần thế. 53*
42. Ðường lối và phương tiện nên
thánh.
"Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa,
và Thiên Chúa sống trong người ấy" (1Gio 4,16), Thiên Chúa đã đổ tràn đức
ái Ngài trong tâm hồn chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần Ngài đã ban cho chúng ta
(x. Rm 5,5); cho nên ơn huệ thứ nhất và cần thiết nhất là bác ái. Ðức ái làm
cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Ngài.
Nhưng để đức ái, tựa hạt giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và kết sinh hoa trái,
mỗi một tín hữu phải sẵn lòng lo lắng nghe Lời Chúa, và với ơn Ngài thực hành
thánh ý Ngài; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, năng
tham dự vào các nghi lễ phụng vụ, chuyên cần cầu nguyện, từ bỏ mình, nhiệt
thành phục vụ anh em và chuyên cần luyện tập các nhân đức. Thực thế, đức ái là
mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Col 3,14; Rm
13,10), nên đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành
và đạt được cùng đích 12. Vì thế, đức ái đối với Thiên Chúa và tha
nhân là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Kitô.
Vì
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã tỏ tình yêu của Người bằng cách hy sinh mạng sống
vì chúng ta, nên không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì
Chúa và vì anh em (x. 1Gio 3,16; Gio 15,13). Một số Kitô hữu ngay từ thời sơ
khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn
trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Khi tử đạo, người
môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ
thế giới, và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo Hội coi việc
tử đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái. Mặc dầu chỉ
một số ít được phúc tử đạo, nhưng tất cả mọi người phải sẵn sàng tuyên xưng
Chúa Kitô trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những
cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội.
Sự
thánh thiện của Giáo Hội cũng được đặc biệt khích lệ bởi nhiều lời khuyên Chúa
đã đề ra trong Phúc Âm cho môn đệ noi theo 13. Trong những lời
khuyên ấy, trước hết phải kể ân huệ cao quí mà Chúa Cha ban cho một số người
(x. Mt 19,11; 1Cor 7,7), để họ tận hiến trọn tình yêu không chia xẻ cho một
mình Chúa cách dễ dàng hơn, trong bậc đồng trinh hay độc thân (x. 1Cor 7,32-34) 14. Sự tiết dục hoàn
toàn vì Nước Trời luôn được Giáo Hội đặc biệt quí trọng và coi như dấu chỉ và động
lực của đức ái, và như nguồn mạch đặc biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng trong
thế giới.
Giáo
Hội cũng nhớ lời khuyên nhủ của Thánh Tông Ðồ thúc giục các tín hữu sống bác ái
và khuyên họ phải có tâm tình như Chúa Giêsu Kitô "Ðấng tự diệt mình, nhận
lấy hình hài tôi tớ..., và vâng lời cho đến chết" (Ph 2,7-8), và vì chúng
ta, "Người đã trở nên nghèo nàn, tuy Người vốn giàu sang" (2Cor 8,9).
Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các
môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy
trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ
lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con
cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện
tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn
lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn 15.
Vì thế, mọi Kitô hữu đều được kêu mời và có
bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình. Bởi vậy, tất cả hãy lưu
ý điều khiển tâm tình mình cho đúng đắn, để việc xử dụng của cải trần gian và
lòng quyến luyến sự giàu sang nghịch với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, không
cản trở họ theo đuổi đức ái trọn hảo, như lời Thánh Tông Ðồ cảnh giác: ai xử dụng
thế gian này, xin chớ dừng lại đó, vì cuộc diện đời này sẽ qua đi (x. 1Cor
7,31, bản Hy lạp) 16. 54*
Chương VI: Tu Sĩ 55*
43. Những lời khuyên Phúc Âm trong
Giáo Hội.
Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức
nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa,
đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội
khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi
Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người. Theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, chính
giáo quyền ân cần giải thích các lời khuyên của Phúc Âm, hướng dẫn cách thực
hành, cùng thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy. Do
đó, như một cây đâm chồi nẩy lộc um tùm và kỳ diệu từ hạt giống Chúa gieo vãi
trong cánh đồng của Người, thì cũng có nhiều lối sống khác nhau: đơn độc hay cộng
đồng, và dòng tu khác nhau mà phần sản nghiệp dồi dào đem lại lợi ích cho các
chi thể của dòng cũng như toàn Thân Thể Chúa Kitô 1. Thực vậy, các
dòng ấy mang lại cho các chi thể những trợ lực bền bỉ trong một đời sống vững
vàng hơn, một học thuyết vững chắc giúp đạt đến trọn lành, một mối hiệp thông
huynh đệ trong đạo binh Chúa Kitô, và một sự tự do được đức vâng lời củng cố;
thế nên, họ có thể an tâm chu toàn và trung thành gìn giữ lời khấn cùng hoan hỷ
tiến bước trên con đường đức ái 2.
Xét theo thể chế của Giáo Hội do Chúa thiết
lập và có phẩm trật, thì bậc sống tu trì không ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân;
thực vậy Thiên Chúa kêu gọi một số Kitô hữu ở cả hai bậc giáo sĩ và giáo dân đến
hưởng lấy ân huệ đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, và mỗi người một cách góp phần
vào sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội 3. 56*
44. Bản tính và tầm quan trọng của bậc
tu trì.
Người Kitô hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay
qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân
hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh
hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được
cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy,
người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội,
thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ
Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình
hơn 4. Việc cung hiến đó
càng trở nên hoàn hảo hơn khi việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của
Người, bằng mối dây bất khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây ràng
buộc chắc chắn và vững bền hơn.
Những
lời khuyên của Phúc Âm đưa đến đức ái 5, và nhờ đức ái, những lời khuyên ấy kết hiệp
các tu sĩ cách đặc biệt với Giáo Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội. Bởi đó, đời sống
thiêng liêng của họ cũng phải mưu cầu lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Do đó, mỗi
người tùy sức và ơn gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực,
có bổn phận làm cho Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và
bành trướng trên khắp vũ trụ. Vì thế, Giáo Hội duy trì và nâng đỡ đặc tính
riêng biệt của các tu hội.
Việc
khấn giữ các lời khuyên của Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn
hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm
Kitô hữu. Thực vậy, dân Thiên Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này,
nhưng đi tìm một thành trì mai sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những
lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải
trên trời đã có ngay dưới trần gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của
Chúa Kitô đã đem lại một đời sống mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục
sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước
cách chính xác hơn và thực hiện liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên
Chúa đã nhận khi Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống
mà Người đã đề ra cho các môn đệ theo Người. Sau cùng, bậc sống ấy đặc biệt cho
ta thấy Nước Thiên Chúa vượt trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi của Nước ấy
cao cả biết bao; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của
Chúa Kitô Vua và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ
diệu trong Giáo Hội.
Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc
tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật
của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của
Giáo Hội. 57*
45. Quyền bính Giáo Hội và bậc tu trì. Vì trong Giáo Hội,
giáo phẩm có nhiệm vụ chăn dắt và dẫn đưa Dân Chúa đến những đồng cỏ phì nhiêu
(x. Ez 34,14), nên có nhiệm vụ dùng các luật lệ mà hướng dẫn cách khôn ngoan việc
thực hành những lời khuyên của Phúc Âm, vì đó là phương thế đặc biệt để cổ võ đức
ái trọn hảo đối với Thiên Chúa và tha nhân 6. Ngoan ngoãn vâng
theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, giáo phẩm đón nhận những luật dòng do những
nam nữ sáng lập viên lỗi lạc đề nghị, và chính thức phê chuẩn sau khi tu chỉnh.
Và do quyền hành của mình, giáo phẩm luôn có mặt để săn sóc và bảo trợ những
dòng tu được thiết lập khắp nơi nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, để các dòng
tu ấy phát triển và sinh hoa kết quả theo tinh thần các đấng sáng lập.
Ðàng
khác, để đáp ứng cách hữu hiệu hơn nhu cầu của toàn thể đoàn chiên Chúa, Ðức
Giáo Hoàng, vì có quyền tối thượng trong toàn thể Giáo Hội và để phục vụ ích
chung, có thể tách bất kỳ dòng tu hay tu sĩ nào khỏi quyền tài thẩm của các Ðấng
Bản Quyền và chỉ đặt dưới quyền duy nhất của ngài 7. Cũng thế, có thể
có những dòng tu và những tu sĩ được để lại hoặc giao phó cho thẩm quyền riêng
của các Giáo Chủ. Khi chu toàn phận vụ đối với Giáo Hội qua cách sống đặc biệt
của mình, các tu sĩ phải kính trọng và vâng lời các Giám Mục theo giáo luật, vì
phải tôn trọng quyền mục vụ của các ngài trong Giáo Hội địa phương và vì cần phải
có sự đồng tâm nhất trí trong việc tông đồ 8.
Giáo Hội không chỉ phê chuẩn việc khấn dòng
để đưa đời tu lên địa vị bậc sống theo giáo luật, nhưng qua việc cử hành phụng
vụ, Giáo Hội còn trình bày việc khấn dòng ấy như một bậc sống cung hiến cho
Thiên Chúa. Với quyền hành Chúa ban, chính Giáo Hội nhận lời tuyên khấn của các
tu sĩ; qua lời kinh công cộng, Giáo Hội xin Chúa ban ân sủng và trợ giúp họ,
phó thác họ cho Thiên Chúa, chúc lành thiêng liêng cho họ, và kết hợp sự tận hiến
của họ vào hy lễ tạ ơn. 58*
46. Sự cao cả củaviệc tận hiến. Các tu sĩ phải
đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Chúa
Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như các lương dân: biểu dương
Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân
chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại
đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người,
và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Ðấng đã sai Người đến 9.
Sau
cùng, mọi tu sĩ nên biết rằng việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy bao gồm
sự từ bỏ những của cải mà dĩ nhiên phải được quí trọng, sẽ không làm ngăn trở
việc phát triển đích thực nhân vị, trái lại do bản chất của nó còn có lợi cho
con người. Thực vậy, các lời khuyên Phúc Âm, mà các tu sĩ đã tình nguyện chấp
nhận theo ơn gọi riêng của mình, góp phần không ít vào việc thanh luyện tâm hồn
và phát huy tự do thiêng liêng, và không ngừng khích lệ sống bác ái nhiệt
thành, nhất là có sức làm cho người Kitô hữu ngày càng nên giống đời sống trinh
khiết và khó nghèo mà Chúa Kitô đã chọn và Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Người, đã sống,
như gương lành của bao đấng sáng lập dòng đã chứng tỏ. Không ai được nghĩ rằng,
vì tận hiến như thế, các tu sĩ trở nên xa lạ với mọi người và vô dụng đối với
xã hội trần thế. Vì dù đôi khi không trực tiếp phụ giúp người đồng thời với
mình nhưng tu sĩ lại hiện diện cùng họ cách sâu xa hơn trong lòng Chúa Kitô và
cộng tác một cách thiêng liêng với họ, để việc xây dựng xã hội trần thế luôn đặt
nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người hầu những người xây dựng xã hội trần
thế sẽ không luống công10.
Vì thế, Thánh Công Ðồng công nhận và khen
ngợi nam nữ tu sĩ sống trong tu viện, trường học, bệnh viện hoặc trong các xứ
truyền giáo, đang trang điểm Hiền Thê Chúa Kitô bằng tấm lòng khiêm hạ và kiên
trung trong sự tận hiến và quảng đại phục vụ mọi người dưới muôn vàn hình thức. 59*
47. Khuyến khích sự kiên tâm và thăng tiến. Vậy mỗi tu sĩ được
gọi để tuyên khấn, hãy chuyên tâm sống bền đỗ trong ơn thiên triệu Chúa đã gọi
mình và hãy mãi mãi tiến bộ để làm cho sự thánh thiện của Giáo Hội thêm phong
phú hơn và sự vinh hiển của Thiên Chúa Ba Ngôi duy nhất và bất phân thêm cao cả
hơn. Trong và nhờ Chúa Kitô, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và nguyên ủy mọi sự
thánh thiện. 60*
Chương VII: Ðặc Tính Cánh Chung Của Giáo Hội Lữ
Hành Và Sự Hiệp Nhất Với Giáo Hội Trên Trời 61*
48. Ðặc tính chung của ơn gọi chúng
ta.
Tất cả chúng ta được mời gọi gia nhập Giáo Hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng
Thiên Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo Hội. Và Giáo Hội chỉ kết thúc trong
vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến (CvTđ 3,21) và khi toàn thể
vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn trong Chúa Kitô, vì vũ trụ
liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình
(x. Eph 1,10; Col 1,20; 2P 3,10-13).
Thực
vậy, Chúa Kitô, khi bị treo lên khỏi đất, đã kéo mọi người đến với mình (x. Gio
12,32, bản Hy lạp). Khi từ kẻ chết sống lại (x. Rm 6,9), Người đã sai Thánh Thần
ban sự sống đến với các môn đệ và nhờ Thánh Thần thiết lập thân thể Người là
Giáo Hội như bí tích phổ quát cứu rỗi. Nay đang ngự bên hữu Chúa Cha, Người
không ngừng tác động trong thế giới để dẫn đưa mọi người về với Giáo Hội, và
qua Giáo Hội, kết hợp họ với Người khắng khít hơn; Người còn lấy chính Mình Máu
Người nuôi họ, cho họ tham dự vào cuộc sống vinh hiển của Người. Vì vậy, sự cải
tạo Chúa đã hứa và chúng đang mong đợi đã khởi sự nơi Chúa Kitô, được xúc tiến
khi Thánh Thần đến và nhờ Ngài được tiếp diễn trong Giáo Hội. Nhờ đức tin trong
Giáo Hội, chúng ta còn hiểu được ý nghĩa cuộc sống ở trần thế, ngay khi chúng
ta lo hoàn tất công việc Chúa Cha trao phó ở đời này trong niềm hy vọng hạnh
phúc mai sau cũng như khi chúng ta lo phần rỗi của mình (x. Ph 2,12).
Như
thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi vậy (x. 1Cor 10,11). Việc canh
tân thế giới được thiết lập một cách bất khả phục hồi và thực sự đã bắt đầu một
cách nào đó ngay từ bây giờ vì Giáo Hội đã được trang điểm bằng sự thánh thiện
đích thực, tuy chưa hoàn toàn. Dù vậy, cho tới khi có trời mới và đất mới, nơi
công lý ngự trị (x. 2P 3,13), Giáo Hội lữ hành mang khuôn mặt chóng qua của đời
này, qua các bí tích và định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội
vẫn sống giữa các thụ sinh tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn
lúc sinh con, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện (x. Rm 8,19-22).
Bởi vậy, được nối kết với Chúa Kitô trong
Giáo Hội và được in dấu của Thánh Thần là "bảo chứng của cơ nghiệp chúng
ta" (Eph 1,14), chúng ta thực sự được gọi là con Thiên Chúa và chúng ta là
con Chúa thật (x. 1Gio 3,1); nhưng chúng ta chưa được xuất hiện với Chúa Kitô
trong vinh quang (x. Col 3,4), trong đó chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa, vì
trông thấy Ngài như Ngài có thật (x. 1Gio 3,2). Vì thế, "đang khi chúng ta
còn ở trong thân xác này, là phải lưu đày xa Chúa" (2Cor 5,6) và được hưởng
hoa quả đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta âm thầm than vãn (x. Rm 8,23) và khao
khát được ở với Chúa Kitô (x. Ph 1,23). Chính đức ái đó thúc bách chúng ta sống
cho Người hơn nữa, vì Người đã chết và sống lại cho chúng ta (x. 2Cor 5,15). Do
đó chúng ta gắng sức làm đẹp lòng Chúa trong mọi việc (x. 2Cor 5,9) và mặc lấy
binh giáp Thiên Chúa, hầu có thể đứng vững trước những cạm bẩy của ma quỉ và
kháng cự chúng trong ngày gian truân (x. Eph 6,11-13). Ðàng khác, vì không biết
ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc
nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt (x. Dth 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự
tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (x. Mt
25,31-46), chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (x. Mt 25,26) sẽ bị
đẩy vào lửa đời đời (x. Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi "khóc lóc và nghiến
răng" (Mt 22, 13 và 25,30). Thật vậy, trước khi ngự trị với Chúa Kitô vinh
hiển, mọi người chúng ta đều phải trình diện "trước tòa Chúa Kitô, để mọi
người lãnh lấy những thành quả đời mình đã làm trong thân xác hoặc lành hoặc dữ"
(2Cor 5,10). Và ngày tận thế "ai đã làm lành sẽ sống lại hầu được sống,
còn ai làm ác sẽ sống lại để chịu đoán phạt" (Gio 5,29; x. Mt 25,46). Bởi
đó, tin rằng "những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào đâu với vinh quang sắp
tới sẽ được giải bày cho chúng ta" (Rm 8,16; x. 2Tm 2,11-12), chúng ta mạnh
mẽ tin tưởng trông đợi "niềm hy vọng hạnh phúc và ngày trở lại vinh quang
của Thiên Chúa cao cả và Ðấng cứu chuộc chúng ta là Chúa Giêsu Kitô" (Tit
2,13). "Người sẽ cải tạo thân xác hèn mạt ta ra giống thân xác sáng láng của
Người" (Ph 3,21) và sẽ ngự đến "để được vinh quang trong các Thánh của
Người và được thán phục trong mọi người đã tin" (2Th 1,10). 62*
49. Sự hiệp thông giữa Giáo Hội trên trời và Giáo Hội lữ
hành. 63* Bởi thế, cho tới
khi Chúa ngự đến trong uy nghi, có tất cả các Thiên Thần theo Người (x. Mt
25,31), và khi sự chết đã bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người (x. 1Cor
15,26-27), thì trong số các môn đệ Chúa, có những kẻ còn tiếp tục cuộc hành
trình nơi trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này và đang được tinh luyện
và có những kẻ được hiển vinh đang chiêm ngưỡng "rõ ràng chính Thiên Chúa
duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có" 1. Nhưng hết thảy mọi
người chúng ta, tùy cấp bậc và cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một
đức mến Chúa yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa
chúng ta. Vì tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh Thánh Thần Người,
đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và liên kết với nhau trong Người (x. Eph
4,16). Bởi vậy, sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các
anh em đã yên nghỉ trong an bình Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng trái lại,
Giáo Hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn vững mạnh hơn nhờ việc truyền
thông cho nhau những của cải thiêng liêng 2. Quả thực, nhờ kết
hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo Hội
vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo Hội
tại thế dâng lên Thiên Chúa, được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo Hội
rộng rãi hơn bằng nhiều cách (x. 1Cor 12,12-27) 3. Ðược về quê trời
và hiện diện trước nhan Chúa (x. 2Cor 5,8) nhờ Người, với Người và trong Người,
các Thánh không ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha 4, bằng cách trình
bày các công nghiệp đã lập được khi còn ở dưới thế, nhờ Ðấng Trung Gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giêsu Kitô (x. 1Tm 2,5), khi họ đã phục vụ
Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân xác họ những gì còn thiếu sót trong các
đau khổ của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân Thể Người là Giáo Hội (x. Col 1,24) 5. Do đó, với tình
huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn. 64*
50. Tương quan giữa Giáo Hội lữ hành
và Giáo Hội trên trời. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm
Thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo Hội lữ hành hết lòng
kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết 6, "vì cầu nguyện
cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành
thánh" (2Mac 12,46). Ðối với các tông đồ và những vị tử đạo của Chúa Kitô,
là những chứng nhân cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo Hội luôn tin rằng,
các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Kitô: với lòng yêu mến
đặc biệt, Giáo Hội tôn kính các ngài cùng Ðức Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên
Thần 7, và sốt sắng nài
xin các ngài trợ giúp và cầu bầu cho. Sau đó không bao lâu, thêm vào số các vị trên,
Giáo Hội còn tôn kính những người đã nhiệt thành noi gương khiết trinh và khó
nghèo của Chúa Kitô 8; và sau cùng, có những người vì đã thực
hành cách phi thường các nhân đức Kitô giáo 9 và được Chúa ban
nhiều ân điển, nên được các tín hữu thành tâm tôn kính và noi theo 10.
Quả
thực, khi ngắm nhìn đời sống những người đã trung thành bước theo Chúa Kitô,
chúng ta khám phá ra một lý do mới thúc đẩy chúng ta tìm kiếm Thành Thánh tương
lai (x. Dth 13,14 và 10,11), đồng thời chúng ta cũng biết con đường chắc chắn
giúp chúng ta đạt tới sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa Kitô, nghĩa là đạt tới sự
thánh thiện, giữa bao thăng trầm trần thế, tùy theo bậc sống và hoàn cảnh riêng
của mỗi người 11. Qua cuộc sống của những người cùng mang một
bản tính nhân loại như chúng ta, nhưng đã được biến đổi nên giống hình ảnh Chúa
Kitô hơn (x. Cor 3,18), Thiên Chúa tỏ lộ rõ ràng cho con người thấy dung nhan
và sự hiện diện của Ngài. Chính Ngài nói với chúng ta qua các vị ấy và ban cho
chúng ta thấy dấu chỉ Nước Ngài 12, và mãnh liệt lôi cuốn chúng ta tới Nước ấy
nhờ số chứng nhân đông đảo như mây trời (x. Dth 12,1) và nhờ chân lý Phúc Âm được
chứng thật như thế.
Tuy
nhiên, chúng ta kính nhớ các Thánh trên trời không chỉ vì gương lành các ngài
mà thôi, nhưng đúng hơn để sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội trong Thánh Thần
được bền vững nhờ thực hành đức bác ái huynh đệ (x. Eph 4,1-6). Thực vậy, cũng
như mối hiệp thông giữa các Kitô hữu còn sống trên dương thế đưa chúng ta tới gần
Chúa Kitô hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng hiệp nhất chúng ta với Người,
là Ðầu và là Nguồn phát sinh mọi ân sủng và sự sống của chính Dân Thiên Chúa 13. Do đó, điều hết sức
thích đáng là chúng ta yêu mến các bạn hữu và những người đồng thừa tự của Chúa
Kitô, cũng là anh em và ân nhân đặc biệt của chúng ta, cũng như chúng ta dâng lời
cảm tạ Thiên Chúa vì các ngài 14 và "thành khẩn
van nài, chạy đến xin các ngài cầu nguyện và trợ lực, giúp đỡ, hầu Chúa Cha ban
cho nhiều ơn lành, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta, Ðấng Cứu Chuộc
và Giải Thoát duy nhất của chúng ta"15. Thực vậy, mọi bằng chứng
đích thực biểu lộ tình yêu chúng ta đối với các Thánh trên trời, từ bản chất,
luôn qui hướng và kết thúc nơi Chúa Kitô là "triều thiên của toàn thể các
Thánh" 16, và nhờ Người qui hướng và kết thúc nơi
Thiên Chúa, Ðấng đáng ca tụng và tôn vinh trong các Thánh 17.
Hơn nữa, sự hiệp nhất của chúng ta với Giáo
Hội trên trời được thực hiện cách hết sức cao cả, đặc biệt trong Phụng Vụ, ở đó
quyền năng Thánh Thần hoạt động trên chúng ta qua các dấu chỉ bí tích, ở đó
chúng ta cùng lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa uy linh 18, và tất cả mọi người
thuộc mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia được cứu chuộc trong máu Chúa
Kitô (x. Kh 5,9), hợp nhau trong một Giáo Hội duy nhất, đồng thanh chúc tụng một
Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vậy, khi cử hành lễ hy tế tạ ơn, chúng ta kết hợp rất mật
thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng
ta kính nhớ trước hết Ðức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, sau là Thánh
Giuse, các Thánh Tông Ðồ và Tử Ðạo cùng toàn thể các Thánh 19. 65*
51. Hướng dẫn mục vụ của Công Ðồng. Thánh Công Ðồng
kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông
sống động với các anh em được hiển vinh trên trời hay còn phải tinh luyện sau
khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của các thánh Công Ðồng Nicea II 20, Firenze 21 và Trentô 22. Ðồng thời, vì quan
tâm đến mục vụ, Công Ðồng khuyên nhủ tất cả những vị hữu trách hãy hết sức ngăn
cản và sửa dạy những ai lạm dụng, thái quá hay bất cập, và hãy tái lập mọi sự để
Thiên Chúa và Chúa Kitô được ngợi khen cách trọn hảo hơn. Bởi vậy, các ngài hãy
dạy cho tín hữu biết rằng, việc tôn kính các Thánh đích thực không hệ tại nhiều
ở những việc bề ngoài bằng ở cường độ tình yêu tích cực của chúng ta. Tình yêu ấy
giúp chúng ta tìm thấy "một gương mẫu trong khi gặp gỡ các ngài, được
thông hiệp qua việc kết hợp với các ngài và được các ngài cầu bầu trợ
giúp" 23, để đem lại nhiều
lợi ích cho Giáo Hội và cho chúng ta. Ðàng khác, ước gì các ngài cũng hãy giúp
các tín hữu hiểu rằng mối liên lạc giữa chúng ta và các Thánh trên trời, hiểu
theo ánh trọn vẹn của đức tin, không hề làm suy giảm sự tôn thờ dành riêng cho
Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, nhưng trái lại còn làm cho
sự tôn thờ ấy thêm phong phú hơn 24.
Vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên
Chúa và hợp thành một gia đình trong Chúa Kitô (x. Dth 3,6), nên khi hiệp thông
với nhau trong tình yêu qua lời đồng thanh ca tụng Chúa Ba Ngôi chí thánh,
chúng ta cùng đáp lại lời mời gọi thân tình của Giáo Hội, và được tham dự, cảm
mến trước phụng vụ vinh hiển toàn hảo 25. Vì khi Chúa Kitô hiện đến và khi kẻ chết
sống lại trong vinh quang, ánh sáng Thiên Chúa sẽ chiếu soi Thành Thánh trên trời
và Con Chiên sẽ là đuốc sáng (x. Kh 21,23). Toàn thể Giáo Hội các Thánh sẽ thờ
lạy Thiên Chúa và "Con Chiên đã bị giết" (Kh 5,12) trong hạnh phúc
sung mãn của đức ái, và đồng thanh ca tụng rằng: "Ngợi khen, danh dự, vinh
hiển, quyền năng muôn đời cho Ðấng ngự trên ngai và Con Chiên" (Kh
5,13-14) 66*.
Chương VIII: Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ
Thiên Chúa
Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo
Hội 67*
I. Lời Mở Ðầu
52. Nhập đề. 68* Thiên Chúa là Ðấng
vô cùng nhân hậu và khôn ngoan đã muốn hoàn tất việc cứu chuộc thế giới, nên
"khi đến thời viên mãn, Ngài đã sai Con Mình đến, sinh bởi người nữ... để
chúng ta được nhận làm nghĩa tử" (Gal 4,4-5). "Vì loài người chúng ta
và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần,
Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria" 1. Mầu nhiệm cứu rỗi
thần linh này được mạc khải cho chúng ta và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội
mà Chúa đã lập làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy, liên kết với Chúa Kitô Thủ
Lãnh, và hiệp thông với toàn thể các Thánh Người, các tín hữu cũng phải kính nhớ
"trước hết đức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" 2. 69*
53. Ðức Maria và Giáo Hội. Thực vậy, khi sứ thần truyền tin,
Ðức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác,
và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của
Thiên Chúa và của Ðấng Cứu Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp
Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Ðức Maria đã lãnh nhận sứ
mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa
Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí
này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, vì thuộc
dòng dõi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn nữa,
"Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)... vì đã cộng tác trong đức
ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Ðầu ấy" 3. Vì thế, Ngài cũng
được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu
mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái.
Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài tình con thảo,
như đối với một người Mẹ rất dấu yêu. 70*
54. Ý hướng của Công Ðồng. Bởi thế, khi trình bày giáo lý về
Giáo Hội - trong Giáo Hội này, Chúa Cứu Thế thực hiện cuộc cứu độ - Thánh Công
Ðồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ vai trò của Ðức Nữ Trinh trong mầu nhiệm Ngôi
Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể, cũng như làm sáng tỏ bổn phận những người được cứu
chuộc đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại, cách riêng Mẹ các
tín hữu. Tuy nhiên, Công Ðồng không có ý đưa ra một học thuyết đầy đủ về Ðức
Maria và giải quyết các vấn đề mà sự nghiên cứu của các nhà thần học chưa làm
sáng tỏ trọn vẹn. Những ý kiến được tự do trình bày trong các trường phái công
giáo về Ðấng có địa vị cao cả nhất trong Giáo Hội thánh sau Chúa Kitô, và cũng
là Ðấng rất gần chúng ta 4, những ý kiến ấy đều được duy trì cách hợp
pháp 71*.
Trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi 72*
55. Mẹ Ðấng Cứu Thế trong Cựu Ước. Thánh Kinh, Cựu Ước
cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày một sáng tò hơn vai
trò của Mẹ Ðấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai trò ấy ra cho chúng
ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó
ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu
tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo ánh sáng mạc khải trọn
vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh người nữ, Mẹ Ðấng Cứu Thế. Theo ánh
sáng mạc khải ấy, người nữ này đã được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng
con rắn, lời hứa mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm tội (x. Stk 3,15). Cũng
thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel (x. Is 7,14
so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài trổi vượt trên các người khiêm hạ và
khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ
nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với Ngài, người
Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn và Nhiệm Cuộc mới được thiết
lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con
người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa. 73*
56. Ðức Maria trong việc truyền tin. Nhưng Chúa Cha rất
nhân từ đã muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định trước khi Chúa Con nhập
thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác
cho sự sống. Ðiều đó đặc biệt thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài đem đến cho
thế giới chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đã được Chúa ban cho nhiều ơn cân
xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có gì lạ, nếu các Thánh Giáo Phụ
đã thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Ðấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội
nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành 5. Tràn đầy thánh
thiện, có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai, Ðức Trinh Nữ thành
Nazareth được Thiên Thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và kính chào là "Ðấng
đầy ân phúc" (x. Lc 1,28). Và Trinh Nữ đã đáp lời Thiên Sứ rằng: "Này
tôi là Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38). Như
thế, Ðức Maria, con cháu Adam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa
Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào
ngăn trở Ngài, Ðức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự
nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm
cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nghĩ
rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Ðức Maria một cách thụ động, nhưng
đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng
phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã
trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại" 6. Và cùng với thánh
Ireneô còn có rất nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy
rằng: "Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự
vâng phục của Ðức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Ðức
Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin 7; và so sánh với Evà, các ngài gọi Ðức
Maria là "Mẹ kẻ sống" 8, và thường quả quyết rằng: "bởi Evà
đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống" 9. 74*
57. Ðức Maria và thời thơ ấu Chúa Giêsu. Sự liên kết giữa
Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Ðức Maria thụ thai Chúa
Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Ðức
Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và được bà ấy chào mừng là người có phúc vì
đã tin vào sự cứu rỗi Chúa đã hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong lòng mẹ
(x. Lc 1, 41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới thiệu với
các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu lòng của mình, mà khi sinh ra đã
không làm giảm bớt nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài 10. Trong đền thánh,
sau khi hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Ðức Maria dâng Con lên cho Thiên
Chúa, và đã nghe Simeon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được
bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi trẻ Giêsu lạc mất, Cha Mẹ đã lo âu tìm kiếm và gặp
lại Con trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài không hiểu
lời Con nói; nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả các điều ấy và suy gẫm trong
lòng (x. Lc 2, 41-51). 75*
58. Ðức Maria và đời sống công khai Chúa Giêsu. Trong cuộc đời
công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ ràng, và ngay từ đầu,
trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, vì động lòng thương xót, Ngài đã cầu bầu,
khiến Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai, làm phép lạ đầu tiên của Người (x. Gio 2,
1-11). Trong thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã đón nhận lời của Con Ngài,
những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và liên hệ huyết nhục, và
tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song
song; Lc 11,27-28) như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín
(x. Lc 2,19 và 51). Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức
tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên
Chúa, Ngài đã đứng đó (x. Gio 19,25). Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con
một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết
tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Chúa
Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời
này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Gio 19,26-27) 11. 76*
59. Ðức Maria sau khi Chúa lên trời. Vì Thiên Chúa
không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ
tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông Ðồ trước ngày Hiện
Xuống "đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria,
Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người" (CvTđ 1,14). Ðức Maria cũng tha thiết
cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Ngài trong ngày Truyền
Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ 12, và sau khi hoàn tất
cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên
trời cả hồn lẫn xác 13, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương
vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng
đã chiến thắng tội lỗi và sự chết 14. 77*
60. Ðức Kitô, Ðấng trung gian độc nhất và Mẹ Maria. 79* Chúng ta chỉ có một
Ðấng Trung Gian duy nhất, như lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một
Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với
nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người, đã dâng mình làm giá chuộc mọi người"
(1Tm 2,5-6). Nhưng vai trò làm mẹ của Ðức Maria đối với loài người không làm lu
mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại
còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi
của Ðức Nữ Trinh trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể
nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư
tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung
gian của Chúa Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng
này không làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực tiếp với
Chúa Kitô. 80*
61. Cộng tác vào việc cứu chuộc. Từ muôn đời, Ðức
Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của
Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian
Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn
mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa. Vì
đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha
trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng
tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ
đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các
linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta. 81*
62. Vai trò tùy thuộc trong việc cứu
rỗi.
Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ
khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã
không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu
rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài
trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để
đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời 15. Với tình từ mẫu,
Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp
bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế,
trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo
Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian 16. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế
nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Ðấng Trung Gian duy nhất 17.
Thực
vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng với Ngôi Lời nhập thể và cứu
chuộc; nhưng cũng như chức linh mục của Chúa Kitô được thông ban dưới nhiều
hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất
của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, thì sự trung gian duy
nhất của Ðấng Cứu Thế không những không loại bỏ mà còn khuyến khích các thụ
sinh cộng tác, trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tùy thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo Hội
không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ
trong lòng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn
với Ðấng Trung Gian và Cứu Thế. 82*
63. Maria trinh nữ và người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội. 83* Ðức Trinh Nữ nhờ ân
huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu
Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với
Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên
bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô 18. Thực vậy, trong mầu
nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức
Nữ Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu
tuyệt vời và hiếm có 19. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã
sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được
Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đã đặt niềm tin vào sứ giả của
Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ
nào làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm
Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng
tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ. 84*
64. Giáo Hội là trinh nữ và là mẹ. Tuy nhiên, khi
chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Ðức Maria, và khi
trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên
Chúa mà Giáo Hội trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban
phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa
Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt.
Giáo Hội cũng là trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng trung nghĩa đã
hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo
Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức
mến chân thành 20. 85*
65. Giáo Hội phải bắt chước nhân đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội,
qua con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt tới sự toàn thiện làm cho mình nên thanh
sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng
tội lỗi để tiến trên đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria
là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn.
Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức Maria và chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi
Lời nhập thể, Giáo Hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu
nhiệm nhập thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Ðức Maria đã
mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói là Ngài đã qui tụ và phản
chiếu nơi mình những đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe
rao giảng về Ngài và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ
của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa
Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin,
đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự.
Do đó, trong công cuộc tông đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa
Kitô là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ Trinh sinh
ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Ðời sống của
Ðức Nữ Trinh là một gương sáng của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải
là động lực của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để
tái sinh nhân loại. 86*
66. Bản tính và nền tảng của việc tôn kính Ðức Mẹ. Nhờ hồng ân Thiên
Chúa, Ðức Maria được tôn vinh, sau Chúa Con, vượt trên hết các thiên thần và
loài người, vì Ngài là Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và đã tham dự vào các mầu
nhiệm của Chúa Kitô; do đó Ngài đáng được Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt sùng
kính. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Ðức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước
hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự
che chở của Ngài trong mọi cơn gian nan khốn khó 21. Nhất là từ công đồng
Ephêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Ðức Maria cách lạ lùng: họ
sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Ngài đã tiên báo:
"Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những việc
trọng đại" (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong Giáo Hội,
tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với sự thờ phượng dâng
lên Ngôi Lời nhập thể và lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Ðức
Maria khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội đã chấp nhận
nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo lý lành mạnh và
chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn, hợp với tính khí cùng
tinh thần của tín hữu; những hình thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho
tín hữu nhận biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh, và tuân giữ giới răn Chúa
Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col 1,15-16) và nơi Người, Chúa
Cha hằng hữu "muốn có đầy đủ mọi sự" (Col 1,19). 88*
67. Chiều hướng mục vụ. Thánh Công Ðồng cố ý dạy giáo lý
công giáo ấy, đồng thời Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt
tâm phát huy lòng sùng kính Ðức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy coi trọng
những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn ngài và đã được quyền Giáo Huấn
Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định
của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Ðức Nữ
Trinh và các Thánh 22. Công Ðồng cũng hết lòng khuyến khích các
nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chức phi thường
của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm cũng như mọi
tư tưởng hẹp hòi quá đáng 23. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các Thánh Giáo Phụ,
các tiến sĩ và học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của quyền
Giáo Huấn, họ hãy làm sáng tỏ đúng mức những chức vụ và đặc ân của Ðức Trinh Nữ;
những chức vụ và đặc ân này luôn qui hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn thể
chân lý, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc
làm có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lý đích
thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính
không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù
phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ
nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo
yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta. 89*
Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ
Hành 90*
68. Ðức Maria, dấu chỉ của Dân Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ Chúa
Giêsu đã được vinh hiển hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội
sẽ hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x. 2P
3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho
dân Chúa đang lữ hành. 91*
69. Ðức Maria chuyển cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Thánh Công Ðồng rất
vui mừng và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những
người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được, nhất là các anh em Ðông
Phương, những người nhiệt thành và hết lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng
trinh 24. Tất cả mọi Kitô hữu
hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã
trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn
vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng Con Ngài trong
sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi gia đình dân tộc hoặc đã mang
danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ
trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh
danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia. 92*.
Tất
cả và từng điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị Phụ
Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp
cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định
và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền
công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma,
tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964.
Tôi,
Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp
theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
Chương I
1* Hai chương đầu của Hiến chế tín lý về Giáo Hội nhằm
trình bày mầu nhiệm Giáo Hội trong ý định cứu rỗi của Thiên Chúa như Thánh Kinh
đã mạc khải, trước khi phân tích cơ cấu phẩm trật (ch. III) và tác động siêu
nhiên.
Sau khi đã xác định Giáo Hội khai
sinh từ Mầu Nhiệm Ba Ngôi, chương I của Hiến Chế tìm hiểu những danh xưng và
những hình ảnh khác nhau mà Thánh Kinh xử dụng để chỉ Giáo Hội, đặc biệt nhấn
mạnh tới danh xưng của Thánh Phaolô gọi Giáo Hội là "Thân Thể Chúa
Kitô" (các số 5-7), nhưng không tuyệt đối theo cách gọi đó. Sau cùng,
chương I còn cắt nghĩa thực tại Giáo Hội trong tình trạng cụ thể (số 8).
Ðây là phần nhập đề tổng quát, nói
lên chiều hướng riêng biệt của Hiến Chế. Công Ðồng quả quyết sứ mệnh cứu rỗi
phổ quát của Giáo Hội đã được Chúa Kitô trao phó, qua ý niệm bí tích phổ quát
của ơn cứu rỗi. Ở đây, sự cứu rỗi được quan niệm dưới hình thức hợp thông với
Ba Ngôi.
Các số này có sự thống nhất khá chặt
chẽ về đề mục và cơ cấu, nói lên hoạt động của Ba Ngôi trong đời sống Giáo Hội.
Giáo Hội khai sinh từ ý định tự do của Chúa Cha hằng hữu (số 2), ý định đó được
thực hiện qua sứ mệnh của Chúa Con (số 3), và được bổ túc nhờ sự thánh hóa mà
Chúa Thánh Thần đem đến (số 4). Như vậy chúng ta thấy rõ Giáo Lý Công Giáo về
Giáo Hội được xây dựng trên tín điều căn bản của Kitô giáo. Công Ðồng nói theo
kiểu nói của Thánh Kinh chứ không theo kiểu nói thần học. Và không muốn giải
quyết vấn đề: phải hiểu những hoạt động của Ba Ngôi như thế nào. Câu sau cùng
của số 4 bao gồm chủ đích và nội dung của số đó.
Chương II
1 Xem T. Cyprianô, Epist. 64,4: PL 3,1017; CSEL
(Hartel), III B, trg 720. T. Hilariô Pict., In Mt. 23,6: PL 9,1047. T.
Augustinô, nhiều chỗ khác. T. Cyrillô Alex. Glaph. in Gen. 2, 10: PG 69, 110A.
2 T. Gregoriô Cả. Hom. in Evang. 19,1: PL 76,1154 B. Xem
T. Augustinô, Serm. 341, 9,11: PL 39,1499t. T. Gio. Damascenô, Adv. Iconoct.
11: PG 96,1357.
3 Xem T. Ireneô, Adv. Haer. III, 24, 1: PG 7, 966 B;
Harvey 2, 131; x. b. Sagnard, Sources Chr., trg 398.
4 T. Cyprianô, De Orat. Dom. 23 : PL 4, 553: Hartel, III
A, trg 285. T. Augustinô, Serm. 71, 20, 33: PL 38, 463t. T. Gioan Damascenô,
Adv. Iconocl. 12: PG 96, 1358 D.
Các số này trình bày sự hiện diện và
hoạt động siêu nhiên của Thiên Chúa qua Giáo Hội trong công cuộc cứu độ. Công
Ðồng muốn giải thích ý định cứu rỗi của Ba Ngôi thực hiện qua Giáo Hội (các số
2-4) tiến triển như thế nào trong lịch sử cứu rỗi. Việc đó phải nhờ vào sự phân
tích tỉ mỉ những cách diễn tả của mạc khải Thánh Kinh. Như thế trong số 5, Công
Ðồng nói về Giáo Hội như một Nước Thiên Chúa ở trần gian; số 6 trình bày những
hình ảnh và những hình bóng khác nhau mà Thánh Kinh xử dụng để mô tả Giáo Hội
như là việc của Thiên Chúa; và sau cùng, trong số 7, Công Ðồng giải thích sâu
xa hơn về Giáo Hội là Thân Thể Chúa Kitô, theo sát với giáo lý của Thánh
Phaolô.
Nước phải hiểu theo nghĩa Thánh Kinh
chứ không chỉ nguyên nghĩa xã hội, tức là phải hiểu như là một hành động cai
trị (chính sự thống trị) hơn là sự nới rộng đất đai (hiệu quả của hành động thống
trị). Trong viễn tượng ấy, Công Ðồng quả quyết có hai sự kiện tạo nên Giáo Hội,
tức là Nước Thiên Chúa: hoạt động của Chúa Kitô trước Phục Sinh trong đó Nước
Thiên Chúa (theo ý nghĩa đã giải thích) đã được biểu lộ, và việc Chúa thiết lập
qua Mầu Nhiệm Phục Sinh. Như thế, ngay cả những yếu tố giúp Nước Thiên Chúa
thực hiện cũng đã được phác họa:
a/ Yếu tố siêu nhiên: Là những hồng
ân mà Vị Sáng Lập Giáo Hội ban cho (tổng kết: là ơn trọng đại của Chúa Thánh
Thần);
b/ Yếu tố luân lý: Chấp nhận những
đòi hỏi tinh thần về việc Chúa thống trị trên con người, một cách tự do và toàn
vẹn;
c/ Yếu tố thừa sai: Giáo Hội lãnh
nhận từ Ðấng Sáng Lập sứ mệnh loan báo và tạo lập sự thống trị này của Thiên
Chúa trên mọi người;
d/ Yếu tố cánh chung: Việc thống trị
ấy còn bất toàn trên trần gian, bởi vậy khuynh hướng cánh chung của toàn thể
Giáo Hội hướng tới một Nước hoàn hảo phải được thực hiện trong thời sau hết (x.
số 48c).
5 Xem Origenê, In Mat 16,21: PG 13, 1443 C. Tertullianô,
Adv. Marc. 3,7: PL 2, 357 C; CSEL 47,3 trg 380. Về tài liệu phụng vụ, xem
Sacramentarium Gregorianum: PL 78,160 B. Hoặc C. Mohlberg, Liber Sacramentorum
Romanae Ecclesiae, Roma, 1960, trg 111, XC: "Thiên Chúa không bị ràng buộc
đã ban cho ngươi nơi cư ngụ vĩnh cửu của các thánh...". Ca ngợi Urbs
Jerusalem beata trong sách kinh nhật tụng đan viện, và Coelestis urbs Jerusalem
trong sách kinh nhật tụng Roma.
Sau đây là những khẳng định của Công
Ðồng:
a/ Những hình ảnh và hình bóng ấy là
mạc khải thực về Giáo Hội nhờ đó chúng ta hiểu rõ hơn bản tính sâu xa của Giáo
Hội. Hơn nữa chúng ta còn bầy tỏ sự thống nhất và tiến triển của một mạc khải
được chuẩn bị trong Cựu Ước và được hoàn tất trong Tân Ước.
b/ Giáo thuyết đại cương trong số 5b
được giải thích rõ rệt hơn theo tiến trình tiệm tiến và năng động. Những hình
ảnh về đời sống du mục bày tỏ sự khởi xướng của Thiên Chúa trong Giáo Hội, luôn
tiến triển để đạt tới kết quả sau cùng, những hình ảnh về xây cất chứng tỏ sự
kiên cố, và những hình ảnh gia đình nói lên sự kết hợp thân mật giữa Chúa Kitô
và Giáo Hội.
8 Xem Leô XIII, Tđ. Divinum illud, 9-5-1897: AAS 29
(1896-97), trg 650. Piô XII Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 219-220; Dz 2288
(3808). T. Augustinô, Serm. 268, 2: PL 38, 1232, và nơi khác. T. Gioan Kim
Khẩu, In Eph. bài giảng 9, 3: PG 62. 72. Didymô Alex., Trin, 2, 1: PG 39, 449t.
T. Tôma, In Col. 1, 18, lect. 5: x.b. Marietti, II, số 46: Thân thể được tạo
thành nên một do sự thống nhất của linh hồn, cũng thế Giáo Hội được tạo thành
nên một do sự thống nhất của Thánh Thần..."
Người ta có thể nhận thấy rằng, để
khai triển ý niệm này, những bản văn của Phaolô đã được lập lại một cách phong
phú, chứ không chỉ được sắp xếp theo thứ tự. Những nhà soạn thảo lưu tâm đến
việc trưng dẫn cho "hòa hợp" hơn là đến việc khai triển cho hợp lý.
Bởi vậy người ta đã đi theo tiến trình lịch sử của tư tưởng Phaolô: các đoạn
a-c trích những thư lớn nhiều hơn; các đoạn khác trích các thư thời lưu đày.
Nhưng cũng nên lưu ý Công Ðồng không muốn trực tiếp gọi Giáo Hội là "nhiệm
thể", nhưng quả quyết rằng Chúa Kitô phục sinh đã tạo cho các anh em mình
thành thân thể riêng mình, theo một cách thức bí nhiệm. Có hai lý do:
a) Thánh Phaolô không bao giờ nói về
nhiệm thể. Ngài chỉ quả quyết là các tín hữu trở nên cùng một thân, một người,
một thân thể của Chúa Kitô.
b) Ý kiến Thần học bất đồng về vấn
đề này.
Ðây là tư tưởng chính yếu hướng dẫn
tất cả tiến trình: ơn cứu rỗi biến cải con người thành một tạo vật mới. Chính
Chúa Kitô là tạo vật mới ấy trong thân xác vinh hiển của Người, trong đó Người
triệu tập và nối kết mọi anh em nhờ sức mạnh của Thần Khí Người (7a).
Ý tưởng ấy được khai triển trong hai
chủ đề:
a) Chủ đề "thân xác":
(7b-c): nhấn mạnh tới hai đặc điểm:
- Một cộng đoàn sinh hoạt thiêng
liêng được bí tích nuôi dưỡng (7b).
- Sự khác biệt giữa các chi thể
nhưng cùng "hiệp sức" trong sinh hoạt nhờ cùng một Thánh Thần khích
động, vì lợi ích toàn thể (7c).
b) Chủ đề "Ðầu" (7d-g).
Ðiều khẳng định chính yếu là sự trổi vượt của Chúa Kitô, Ðấng tạo thành và cứu
chuộc, theo như đoạn đầu của các thư gửi tín hữu Ephêsô và Colosê, sự trổi vượt
được Người trang bị cho toàn thân (7d).
Chúa Kitô là Nguyên Lý, là Thủ Lãnh
Giáo Hội được trình bày dưới ba khía cạnh:
- sự hòa hợp các chi thể với Ðầu nhờ
tham dự cuộc tử nạn và phục sinh của Người (7c).
- sự tăng triển của toàn thân hướng
về Chúa Kitô là Ðầu: như vậy Chúa Kitô là Nguyên Lý hợp nhất và tăng triển có
cơ cấu và có hòa hợp (7f).
- sự tăng triển này là công trình
của Thánh Thần Chúa Kitô, luôn làm sống động, nối kết và hướng dẫn Giáo Hội
(7g).
Vài hàng kết luận nói lên chủ đề
Giáo Hội là một Hiền thê (7h).
Trong Giáo Hội, phải phân biệt -
nhưng không được phân tán - hai khía cạnh, có thể so sánh với hai bản tính của
Ngôi Lời nhập thể: một khía cạnh nhân loại và một khía cạnh thần linh. Giáo Hội
như một mầu nhiệm thực sự xuất hiện trên trái đất dưới hình thức cụ thể và hiển
nhiên, và Giáo Hội vẫn hiện diện, nếu không chúng ta không thể nói tới mầu
nhiệm (Giáo Hội là bí tích cứu rỗi, là dấu hiệu hữu hình của ơn cứu rỗi vô hình
và là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa, xem số 1). Mầu nhiệm là chương trình
cứu rỗi được Chúa mạc khải ở trần gian này dưới những tấm màn trong suốt (8a).
Vậy Giáo Hội được Thiên Chúa triệu
tập và qui tụ, phù hợp với Chúa Kitô, là thân thể của Chúa Kitô và được Chúa
Thánh Thần làm cho hoạt động. Tuy nhiên Giáo Hội vẫn là nơi qui tụ mọi người
với tất cả những yếu tố mà nơi qui tụ đó bao gồm, không những về tổ chức, cơ
cấu, thế lực xã hội, mà cả những yếu đuối và tội lỗi. Thực tế phức tạp của Giáo
Hội là như thế, nhưng cũng đừng nên tách biệt hay đối kháng mà phải nhìn với
con mắt đức tin như một công trình của lòng nhân hậu Chúa muốn xử dụng mọi yếu
tố nhân loại, không khinh chê sự yếu hèn của nó. Sự thống nhất có tính cách nền
tảng của Giáo Hội sống động được xác quyết qua ba cách thức khác nhau: không
thể có sự đoạn giao giữa từng hai ý niệm đi với nhau:
"Xã hội phẩm trật - Nhiệm thể
Chúa Kitô";
"Công hội hữu hình - Cộng đoàn
thiêng liêng";
"Giáo Hội trần gian - Giáo Hội
tô điểm bằng hồng ân thiên quốc".
Chúng ta đứng trước một thực tại
phức tạp không chia cắt, nhưng lại bao gồm một yếu tố nhân loại và một yếu tố
thần linh. Trong thực tại phức tạp này, Giáo Hội là dấu hiện có Chúa Thánh Thần
hiện diện và chính Ngài sẽ hoàn tất trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội ơn cứu độ
của những người được tuyển chọn.
Sự kiện vừa là dấu hiệu vừa là lý do
sinh ra ơn thánh cấu tạo nên chính yếu tính của bí tích hay mầu nhiệm: dấu hiệu
hữu hình của thần lực vô hình (8b).
Giáo Hội thánh thiện thật, nhưng một
trật cũng luôn đòi được thanh tẩy; tội lỗi tồn tại trong Giáo Hội, nhưng Giáo
Hội lại được Chúa Thánh Thần thánh hóa sâu xa. Do hai đặc tính này mà công cuộc
cứu độ luôn được thực hiện dưới dấu chỉ khó nghèo và bách hại: đó chính là con
đường mà Giáo Hội phải dấn thân để theo gương Chúa Giêsu; đường riêng của Chúa
luôn là đường Thánh Giá. Giáo Hội là Giáo Hội của tội nhân nên luôn luôn cần
được thanh tẩy. Nhưng nếu từ đó mà vội kết luận rằng Giáo Hội như thế không còn
thánh thiện là kết luận sai, bởi vì như vậy là chỉ nhìn toàn bộ con số những
chi thể chứ không nhìn đến một cái gì khác trong Giáo Hội. Giáo Hội là một xã
hội do Chúa Kitô thiết lập và được Chúa Thánh Thần làm cho sống động chỉ với
mục đích tranh đấu và chiến thắng tội lỗi. Ðó chính là lý do và là cách thức
thánh thiện tinh tuyền của Giáo Hội: Chắc hẳn không phải nơi chi thể hay thủ
lãnh, nhưng là trong chính yếu tính. Giáo Hội là Hiền thê không tì ố, không bụi
nhơ, nhưng chỉ hiện hữu nơi trần gian này trong tình trạng chuẩn bị (8c).
Giáo Hội sẽ toàn thắng trên chặng
đường nguy khó này, nhưng chỉ có thể nhờ sự bác ái và nhẫn nại của Thánh Thần
mới có thể lướt thắng được những trở ngại dồn dập. Những yếu đuối, những khó
khăn, những thiếu sót của Giáo Hội, của một xã hội trần gian, không phải là
những ảo tưởng, nhưng chúng có thực. Cuộc chiến thắng của Giáo Hội Chúa trên
tất cả những nghịch cảnh này cũng không phải là giả tưởng, nhưng là cuộc chiến
thắng thực sự cho người có lòng tin. Như vậy, Giáo Hội thực sự mạc khải mầu
nhiệm Chúa Kitô dù vẫn còn mây đen mờ tối cho tới khi có ánh sáng huy hoàng
chiếu soi (8d).
9 Leô XIII, Tđ. Sapientiae christianae. 10-1-1890: AAS
22 (1889-90), trg 392. n.t., Tđ. Satis cognitum 29-6-1896: AAS 28 (1895-96),
trg 710 và 724 tt. Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 199-200.
10 Xem Piô XII Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 221 tt.
n.t., Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42 (1950), trg 571.
12 Xem Symbolum Apostolicum: Dz. 6-9 (10-13). Symb.
Ni.-Const. : Dz. 86 (150). So sánh với Prof. fidei Trid. : Dz. 994 và 999 (1862
và 1868).
13 Ðọc "Giáo Hội Rôma thánh thiện (công giáo và tông
truyền)": trong Prof. fidei Trid., n.v.t., và CÐ Vat I, Hiến chế tín lý về
đức tin công giáo, Dei Filius : Dz. 1782 (3001).
9* Chương nhất của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội
bàn về mầu nhiệm Giáo Hội đặc biệt trong chiều hướng ngoài thời gian. Chương
hai trình bày hình ảnh mầu nhiệm Giáo Hội cụ thể của Chúa Giêsu Kitô trong chiều
hướng lịch sử: sự xuất hiện, bản tính là Dân Thiên Chúa đang trong cuộc hành
trình, sự bành trướng của Giáo Hội trong không gian và thời gian. Lịch sử tính
phổ quát của mầu nhiệm Giáo Hội - như số 8 đã khai mào - có thể diễn tả một
cách tổng hợp như sau: Giáo Hội là Dân Thiên Chúa trên đường lữ hành qua lịch sử
thánh, bắt đầu từ lúc Israel được Chúa gọi đi tới Giáo Hội với những chiều hướng
phổ quát của cuộc hoàn tất trong sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi. Công Ðồng đã
lưu tâm xây dựng khoa Giáo Hội học dựa trên lịch sử cứu rỗi, như thế là trở về
với dự kiến nền tảng của khoa Giáo Hội học thời Giáo Hội sơ khai mà khoa thần học
thời Trung Cổ (ít quan tâm đến lịch sử), thời chống phái Cải Cách (nhấn mạnh đặc
biệt tới khía cạnh phẩm trật), thuộc thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ XX (khám phá
ra đặc tính huyền thiêng của Giáo Hội và khai triển ý niệm tĩnh về Nhiệm Thể)
đã bỏ qua. Dự kiện nền tảng ấy như sau: chỉ mình Giáo Hội Chúa Kitô là sự hoàn
tất hợp pháp của dân tộc mang lời hứa Cựu Ước; công đoàn con người là Giáo Hội
(với những nhiệm vụ, vai trò và trách nhiệm khác nhau) mặc hình thức một dân tộc
được triệu tập và liên kết bởi một Tân Ước tiếp nối cho Cựu Ước. Triệu tập là
tiếp tục lời mời đối với Israel trước đây, nhưng không còn dành riêng cho một
chủng tộc nào nữa: từ nay trong Tân Ước, lời mời gọi của Thiên Chúa qua Máu
Chúa Kitô sẽ đến với mọi người. Như thế Giáo Hội được coi như Dân Thiên Chúa
đang tiến tới viên mãn dưới Thần Khí Chúa Kitô. Dự kiện ấy là nền tảng cho tất
cả những khai triển của Hiến Chế. Ðể có thể cân nhắc chính xác vai trò của các
hạng người trong Giáo Hội (phổ quát tính của Dân Chúa), cần phải định vị các
nhóm này (giáo phẩm, giáo dân, tu sĩ) trong toàn thể Dân Chúa: "Dân Chúa
nơi đây phải hiểu là cả mục tử lẫn con chiên... Phải nhìn Dân Chúa trong toàn
diện; có vậy mới thấy rõ trách vụ của mục tử là cung ứng cho con chiên những
phương thế cứu rỗi, và ơn gọi của con chiên là phải cộng tác với mục tử để truyền
bá Phúc Âm và mở mang Giáo Hội" (Rel. Gen.). Trước khi đề cập chi tiết đến
những hạng người khác nhau, cần phải mô tả cộng đoàn và cho biết yếu tố chung của
mỗi người, tức là: phải thuộc về Dân Thiên Chúa như là nơi tập hợp các tín hữu.
Ý
niệm về Dân Thiên Chúa giữ một vị trí then chốt trong toàn thể Hiến Chế và nói
lên hai điểm:
a)
Sự liên tục lịch sử của kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa thực hiện trong mầu nhiệm
Giáo Hội, như là dân mới của Tân Ước với đặc tính đón nhận mọi người;
b)
Cộng đoàn sống trong đức tin của tất cả những nhóm và những hạng người tạo
thành Dân Thiên Chúa.
Chương
này có kết cấu đơn giản. Sau phần nhập đề về Dân Thiên Chúa cách tổng quát (số
9), phần nhất mô tả địa vị chung và đồng nhất cho mọi Kitô hữu được Chúa chọn để
tham dự vào Dân Ngài: Dân Thiên Chúa là dân tư tế (các số 10-12). Phần hai bàn
về ơn gọi phổ quát - công giáo tính - của Dân Chúa, ý định được cụ thể hóa
trong lịch sử Dân Ngài. Công Ðồng cố gắng bày tỏ sao cho những hạng người khác
nhau nói lên mối tương quan với Dân Thiên Chúa, là sự phô diễn lịch sử của mầu
nhiệm cứu độ phổ quát (các số 13-16). Phần kết luận của chương này nói về Chúa
Thánh Thần là Ðấng xướng xuất ra phổ quát tính ấy mà những sứ mệnh của Ngài là
biểu tượng sống động.
Chương III
1 Xem T. Cyprianô,
Epist. 69, 6 : PL 3, 1142 B ; Hartel 3 B, trg 754: "bí tích hiệp nhất bất
khả phân ly".
Thần
học về Dân Thiên Chúa được trình bày qua ba giai đoạn:
a)
Ý định hữu hiệu của Thiên Chúa muốn cứu vớt nhân loại qua việc Chúa làm cho
nhân loại trở thành một dân tộc mà Israel cũ là hình bóng chuẩn bị trước. Dân tộc
mới của Chúa kế nghiệp dân tộc cũ và cũng dành cho mình những tước hiệu của dân
tộc cũ (số 9a).
b)
Những chiều hướng của dân tộc mới: có thủ lãnh là Chúa Kitô, có qui chế là chức
vị và sự tự do của các con cái Chúa, có luật pháp là giới răn mới, có không
gian là phổ quát tính, có cùng đích là Nước Trời. Nó vượt quá biên cương một quốc
gia để tiến tới mọi quốc gia (số 9b).
c)
Dân tộc mới này là Giáo Hội Chúa Kitô. Vì chính trong dân ấy mà ý định cứu rỗi
đạt được mục đích là qui tụ các con cái tản mát của Thiên Chúa về hiệp nhất. Nhờ
các con cái ấy mà Dân Thiên Chúa tạo thành Giáo Hội để Giáo Hội trở nên bí tích
hữu hình của một ơn cứu rỗi. Giáo Hội là Dân Thiên Chúa luôn tiến tới viên mãn
là Nước Trời. Bén rễ trong lịch sử, thiết lập trên trái đất và giữa trần gian,
Giáo Hội đang trên đường đi về Giêrusalem thiên quốc (số 9c; x. số 5 và chương
VIII).
Dân
tộc này là một dân "tư tế". Công Ðồng giải thích vắn tắt bản tính của
chức tư tế (số 10) và việc thi hành chức vụ ấy (các số 11-12).
2 Xem Piô XII, Huấn từ
Magnificate Dominum, 2-11-1954 : AAS 46 (1954), trg 669. Tđ. Mediator Dei,
20-11-1947 : AAS 39 (1947), trg 555.
3 Xem Piô XI, Tđ.
Miserentissimus Redemptor, 8-5-1928 : AAS 20 (1928), trg 171t. Piô XII, Huấn từ
"Vous nous avez", 22-9-1956 : AAS 48 (1956), trg 714.
Công
Ðồng đi theo đường lối truyền thống khi quả quyết là người đã chịu phép Thánh Tẩy
đều được thánh hiến để lãnh nhận chức tư tế thánh. Quả thực, Dân Thiên Chúa
tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Kitô vì là dân tộc được thừa hưởng những đặc
ân của dân tư tế mà Thiên Chúa đã tuyển chọn và dành riêng cho Ngài trên núi
Sinai. Chúa Kitô đã được thánh hiến để trở thành vị Tư Tế (tức là vị Trung Gian
của Tân Ước), nhờ Ngôi Hiệp. Chức vụ tư tế ấy được Dân Thiên Chúa tham dự, trở
thành chung cho mọi tín hữu nhờ phép Thánh Tẩy. Công Ðồng gọi là "chức tư
tế cộng đồng". Chúa Kitô biến dân này thành một cộng đoàn được thánh hiến.
Người theo đuổi sứ mệnh của Người trong mỗi tín hữu, mỗi phần tử của Dân Thiên
Chúa. Ai chịu phép Thánh Tẩy để vào Giáo Hội, thì cũng đều nhận được sự thánh
hiến tư tế này, nghĩa là, Chúa Kitô cho người đó tham dự vào chức tư tế, và sứ
mệnh tiên tri và vào chức vụ vương giả của Người (sô 10a).
Nhưng
phải phân biệt chức tư tế cộng đồng này với chức tư tế thừa tác được trao phó
cho một số người đã chịu phép Thánh Tẩy. Chức tư tế thừa tác bao gồm quyền hành
trên Dân Thiên Chúa. Cả hai chức tư tế đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của
Chúa Kitô, và có liên quan với nhau: chức tư tế cộng đồng hoàn tất nhờ chức tư
tế thừa tác và chức tư tế thừa tác dựa trên chức tư tế cộng đồng (số 10b).
Việc
thi hành bao gồm hai nhiệm vụ riêng cho Dân Chúa: tham dự vào các bí tích và chứng
tá cho đức tin.
4 Xem T. Tôma, Summa
Theol. III, q.63, a.2.
5 Xem T. Cyrillô
Hieros., Catech. 17, về Chúa Thánh Thần, II, 35-37 : PG 33, 1009-1012. Nic.
Cabasilas, De vita in Christo, C. III, về lợi ích của dầu thánh: PG 150,
569-580. T. Tôma, Summa Theol. III, q. 95, a.3 và q. 72, a.1 và 5.
6 Xem Piô XII, Tđ. Mediator
Dei, 20-11-1947 : AAS 39 (1947), nhất là trg 552 t.
7 1Cor 7,7: "Mỗi
người Chúa ban cho ơn riêng (idion charisma), người được ơn này, người được ơn
kia". Xem T. Augustinô, De Dono Persev. 14, 37 : PL 45, 1015t: "Không
những tiết dục, nhưng cả khiết tịnh của đôi bạn cũng là ơn Chúa ban".
Chức
tư tế cộng đồng biểu thị tính chât một cộng đoàn có tổ chức hệ thống nên phải
được thi hành bằng những phương tiện có hệ thống và hữu hình. Bí tích chiếm
hàng đầu, nhưng cũng đừng bỏ qua những nhân đức Kitô giáo do các bí tích truyền
thông và thăng tiến nhờ chính những hoạt động của chúng. Ðoạn này nhắc cho
chúng ta ý niệm thần học cổ điển đã nói trong Thông điệp "Mediator
Dei": việc tham dự vào các bí tích (không phải chỉ tiếp nhận thụ động,
nhưng phải tiếp nhận trong sự thấu suốt bằng đức tin) là sự thi hành chức tư tế
ấy. Thực ra, Công Ðồng nhấn mạnh tới hiệu quả mà bí tích mang lại cho đời sống
Kitô hữu hơn là tới chính việc tham dự vào quyền tư tế của Chúa Kitô. Thần học
sẽ còn phải đào sâu về quyền tư tế, một thứ quyền chủ động, trên bình diện toàn
thể Dân Chúa.
8 Xem T. Augustinô,
De Praed. Sanct. 14,27 : PL 44, 980.
Hiến
chế coi việc tuyên xưng đức tin Kitô giáo liên quan tới chức vụ tư tế cộng đồng
và đặc tính vô ngộ của đức tin nơi toàn thể Dân Thiên Chúa là do Chúa Thánh Thần
linh ứng. Ðức tin này không chỉ là việc tuân theo các lời giáo huấn của Giáo Hội,
các công thức Giáo Hội đề ra, nhưng còn diễn tả một "ý thức" sâu thẳm
do Chúa Thánh Thần ghi tạc trong Dân Chúa, ý thức ấy giúp phân biệt chân lý, vững
tâm chấp nhận chân lý mà không sợ sai lầm. Những chân lý ấy được Công Ðồng quảng
diễn theo ba cách:
a)
Trước hết mối dây liên lạc giữa chức tư tế cộng đồng với sứ mệnh tiên tri của
Chúa Kitô, sứ mệnh mà Dân Chúa tham dự và cũng nhờ đó mới có thể minh chứng đức
tin.
b)
Ý thức đức tin có ảnh hưởng trong cộng đoàn nhờ việc Chúa Thánh Thần xức dầu,
và như vậy chính tín hữu, được soi sáng trong tâm hồn, sẽ phân biệt giáo lý
chân chính với tà thuyết.
c)
Trong ý thức đức tin, người ta có thể nhận ra một đoàn sủng được trao ban cho
toàn thể cộng đoàn, và biểu lộ bằng những ân sủng đặc biệt do Chúa Thánh Thần tự
do ban phát vì lợi ích cộng đoàn. Các đoàn sủng bày tỏ quyền năng hoạt động của
Chúa Thánh Thần trong Dân Chúa. Tuy nhiên, các thủ lãnh của Giáo Hội phải cho
biết giá trị chính thực của những ân sủng đặc biệt này.
Từ
số 13, Công Ðồng bắt đầu một khai triển mới, nhấn mạnh tới điều cốt yếu của hiệp
nhất công giáo, nghĩa là tới sự hiệp nhất của Giáo Hội đang lan rộng khắp cả thế
giới. Ðể quả quyết cho đặc điểm công giáo tính này, Công Ðồng chú trọng đến ý định
cứu rỗi của Thiên Chúa (1Tm 2,3). Có hai hiệu quả là, một đàng Giáo Hội tự mình
phải lan rộng đến mọi dân tộc; đàng khác, mọi người có thiện chí, dù sống trong
tình trạng nào đi nữa, thì cũng hoặc thuộc về Giáo Hội, hoặc có tương quan với
Giáo Hội, hoặc hướng về Giáo Hội. Chủ đề được khai triển trong hai phần: phần
nhất bàn về các nguyên tắc (số 13), và phần hai trình bày những áp dụng cụ thể.
9 Xem T. Gioan Kim Khẩu,
In Jo., bài giảng 65, 1 : PG 59, 361.
10 Xem T. Ireneô, Adv.
Haer. III, 16, 6; 22, 1-3 : PG 7, 925C - 926A và 955C - 958A; Harvey 2, 87t. và
120-123; Sagnard, x.b. Sources Chrét. Trg 290-292 và 372tt.
11 Xem T. Inhaxiô Tử Ðạo,
Ad Rom., Lời mở đầu : x.b. Funk, I, trg 252.
Số
13 đã được sửa đổi hầu hết trong lần tu chính sau cùng. Theo thuyết trình viên
thì "chủ đích của bản văn này là trình bày những nguyên tắc của hiệp nhất
tính và phổ quát tính của Dân Chúa, trước khi mô tả những phương thức khác nhau
làm cho con người liên kết với Dân Chúa (các số 14-16). Bởi vậy, đoạn này chính
là gạch nối giữa hai phần của chương hai: phần đầu nói lên những đặc tính tổng
quát của Dân Chúa, phần sau bàn về các thành phần, hoặc hiện là thành phần, hoặc
là thành phần trong tiềm năng" (Rel. Gen.).
Những
chủ đề được quảng diễn như sau:
a)
Ðoạn đầu (13a) chỉ nhấn mạnh tới sự hiệp nhất nối kết Giáo Hội mọi lúc và mọi
nơi. Thiên Chúa đã muốn qui tụ toàn thể nhân loại trong Con của Ngài nhờ hoạt động
hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, và còn muốn nối kết nhân loại trong Giáo Hội của
Chúa Kitô. Sự hiệp nhất thấy được trong việc bẻ bánh và trong kinh nguyện.
b)
Ðoạn hai (13b) khai triển ý tưởng Dân Chúa hiện diện trong mọi quốc gia trên mặt
đất mà không đồng hóa với một quốc gia nào. Dân Chúa phổ quát theo sự lan rộng
về địa lý nhưng lại vượt quá biên cương mọi quốc gia do đặc tính siêu việt và
do sự kiện bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính thế mà mọi dân mọi nước khác biệt lại
trở thành anh em và sự hiệp nhất của Dân Chúa có tính cách "công
giáo" thực sự. Chủ đề thu-về-một-mối được áp dụng triệt để.
c)
Nhờ đặc tính công giáo ấy, tất cả các phần tử Dân Chúa đặt mọi của cải và ân huệ
riêng biệt của mình làm của chung. Cơ cấu nội tại của sự hiệp nhất công giáo của
Giáo Hội thật phức tạp. Bởi vậy mới có sự dị biệt hiệp nhất trong mọi tầng lớp
của Dân Chúa và mọi phần tử phải hợp tác vào sự hiệp nhất dị biệt. Ngay trên
bình diện Giáo Hội, cũng cần phải có các giáo hội địa phương khác biệt nhau
nhưng bổ túc cho nhau, mà không phương hại tới sự hiệp nhất. Hủy bỏ mọi khác biệt
sẽ tạo nên tình trạng nhàm chán nghèo nàn, và là lý do gây nguy hại cho chính
việc hiệp nhất. Nhưng muốn cho sự dị biệt sinh hiệu quả phong phú, cần phải có
yếu tố thông hảo trong đức ái. Trong chiều hướng ấy, Giáo Hội Rôma là năng lực
cai trị và là sự thống nhất các nguyên tắc nhờ trung thành với đức ái (13c).
Trong
câu kết luận (13d) sửa soạn cho phần khai triển kế tiếp, Công Ðồng tái xác nhận
việc mọi người được mời gọi tới ơn cứu rỗi trong Dân Chúa, nhưng mức độ tham dự
và qui hướng tới Dân Chúa lại rất khác nhau, tùy như người đó đã chịu phép
Thánh Tẩy hay mới chỉ là những người được định hướng tới Giáo Hội mà chính họ
không hay biết. Ðể nói lên sự khác nhau đó, Công Ðồng xử dụng hai động từ:
pertineri và ordinari. Chỉ những ai chịu phép Thánh Tẩy đúng ra mới thuộc về
Dân Chúa, còn những người khác hướng về Dân Chúa tùy như mức độ và thiện chí của
họ. Cũng như sự lôi cuốn giữa Cha và Con mà Giáo Hội được tham dự, Giáo Hội
cũng lôi kéo đến mình tất cả mọi người không trừ ai, bởi vì mọi người đều qui
hướng về Giáo Hội do ý định cứu rỗi phổ quát.
Ðối
với Giáo Hội, không ai ở ngoài cuộc cả. Trong cố gắng cụ thể hóa dựa vào những
nguyên tắc đã đề ra, Công Ðồng cứu xét, giữa các hạng người khác nhau trong
tình trạng cụ thể của họ, đâu là mối tương quan của họ với Giáo Hội, là Dân Chúa,
là bí tích hữu hình và phổ quát của ơn cứu rỗi. Vậy nên Công Ðồng cứu xét sự
liên lạc của những người công giáo với Giáo Hội (số 14), của các Kitô hữu ly
khai (số 15), của các người ngoài Kitô giáo có thiện chí (số 16).
12 Xem T. Augustinô,
Bapt. c. Donat. V, 28, 39 : PL 43, 197: "Hiển nhiên, khi nói trong và
ngoài Giáo Hội, phải hiểu là trong tâm hồn chứ không phải trong thân xác".
Xem n.v.t., III, 19, 26: cột 152; V, 18, 24; cột 189; In Jo., Tr. 61, 2 : PL
35, 1800, và nơi khác.
13 Lc 12,48: "Lại
đã trao phó cho ai nhiều, kẻ ấy cũng bị đòi hỏi nhiều hơn". Xem Mt
5,19-20; 7,21-22; 25,41-46; Giac 2,14.
Công
Ðồng bắt đầu từ các tín hữu. Bản văn gồm 3 phần:
a)
Phần nhất xác quyết Giáo Hội cần cho phần rỗi, bằng những hạng từ tổng quát dựa
trên Thánh Kinh và Thánh Truyền. Có thuộc về Giáo Hội thì mới được cứu rỗi vì
chỉ có một vị Trung Gian cho ơn cứu độ là Chúa Kitô, Ðấng hiện diện trong Giáo
Hội là Thân của Người. Hơn nữa, Chúa cũng đã minh nhiên công bố sự cần thiết của
đức tin và phép Thánh Tẩy để dẫn đưa chúng ta vào Giáo Hội. Nhưng, như Công Ðồng
đã minh định, hai yếu tố đó cần thiết với điều kiện là phải biết Thiên Chúa đã
nhờ Chúa Giêsu Kitô mà thiết lập Giáo Hội như phương tiện cần thiết. Nói bằng
những hạn từ tổng quát thì sự cần thiết phải được giải thích như sau: người tự
lỗi riêng mình mà ở ngoài Giáo Hội, phải chịu trách nhiệm về án phạt mình. Công
Ðồng vẫn tôn trọng trường hợp vô tri bất khả thắng cứ thực hay cứ luật của biết
bao nhiêu người trên thế giới (số 14a).
b)
Phần hai giải thích sự gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội. Sự gia nhập
này thực hiện qua những điều kiện bên ngoài như chịu phép Thánh Tẩy, tuyên xưng
đức tin, thông hảo với giáo phẩm trong tinh thần tuân phục. Nhưng hơn thế nữa,
còn đòi phải có Thánh Thần Chúa Kitô. Chỉ tham dự thuần bên ngoài mà thôi không
đủ. Ngoài những yếu tố hữu hình, phải có dây liên lạc với Thánh Thần, tâm hồn
phải thuộc về Chúa Kitô, nghĩa là sống trong đức ái và xa lánh tội lỗi. Một sự
gia nhập trọn vẹn giả thiết có thể có những mối dây liên lạc bất toàn. Chúng ta
sẽ xét đến những mối dây đó trong những đoạn sau (số 14b).
c)
Phần ba bàn về các người dự tòng. Chắc hẳn không thể liệt kê họ vào số những
người không công giáo, dù họ mới chỉ đang trên đường đi tới việc tháp nhập vào
Giáo Hội. Họ đã minh nhiên thỉnh nguyện để được gia nhập, và do ý muốn minh
nhiên ấy mà họ được liên kết với Giáo Hội. Chỉ ý muốn này thôi cũng đủ để thuộc
về Giáo Hội và đạt tới ơn cứu rỗi khi hoàn cảnh không cho phép họ lãnh nhận
phép Thánh Tẩy.
14 Xem Leô XIII, Tông
thư Praeclara gratulationis, 20-6-1894 : AAS 26 (1893-94), trg 707.
15 Xem Leô XIII, Tđ.
Satis Cognitum, 29-6-1896 : AAS 28 (1895-96), trg 738. Tđ. Caritatis studium,
25-7-1898 : AAS 31 (1898-99), trg 11. Piô XII, Diễn văn truyền thanh Nell Alba,
24-12-1941 : AAS 34 (1942), trg 21.
16 Xem Piô XI, Tđ.
Rerum Orientalium, 8-9-1928 : AAS 20 (1928), trg 287. Piô XII, Tđ. Orientalis
Ecclesiae, 9-4-1944 : AAS 36 (1944), trg 137.
Ðoạn
này coi là căn bản và tóm lược điều mà Sắc lệnh về Hiệp Nhất sẽ trình bày: nền
tảng thần học của việc Hiệp Nhất. Công Ðồng vẫn công nhận các anh em ly khai là
Kitô hữu, dầu họ không tuyên xưng một đức tin trọn vẹn hoặc không hiệp thông với
Ðấng kế vị Thánh Phêrô. Sau đó, Công Ðồng liệt kê những mối dây liên lạc khác
nhau nối kết Giáo Hội với anh em ly khai: dây hữu hình như Thánh Kinh, đức tin
vào Thiên Chúa Cha và Chúa Kitô, phép Thánh Tẩy và một số bí tích khác; dây vô
hình như sự kết hợp thiêng liêng qua kinh nguyện, qua sự trao đổi những việc
lành siêu nhiên; sự kết hiệp chính thực nhưng bất toàn: đó là hai khía cạnh của
một sự kết hiệp mà ngày nay trở thành rộng rãi hơn.
Số
này muốn phác họa một khoa thần học về những tôn giáo ngoài Kitô giáo mà Tuyên
Ngôn về các Tôn Giáo này sẽ lặp lại và đào sâu hơn. Công Ðồng xác quyết ba đề
xướng thần học:
a)
Tất cả những người ngoài Kitô giáo đều được qui hướng về Dân Chúa, do hiệu quả
của ý muốn cứu rỗi phổ quát. Công Ðồng xếp họ thành những lớp khác nhau tùy
theo đặc tính qui hướng về Giáo Hội hữu hình. Một vài tôn giáo như Do Thái Giáo
và Hồi Giáo, còn bảo trì Cựu Ước và đức tin của Abraham, thì qui hướng nhiều
hơn. Ðối với các tôn giáo khác, nỗ lực tìm về "một Thượng Ðế chưa được biết
đến" mà ai cũng có thể có được, phần nào chứng tỏ Thiên Chúa muốn lôi kéo
họ đến với Ngài là Thiên Chúa Chân Thật.
b)
Sự qui hướng ấy được thực hiện nhờ ân sủng. Ân sủng hỗ trợ hữu hiệu khiến mọi
người thiện chí sống một đời ngay thẳng, và trong các việc làm biết nỗ lực chu
toàn ý muốn của Thiên Chúa mà họ nhận ra qua tiếng lương tâm.
c)
Tuy nhiên, nhiều trở ngại (về suy lý, tâm lý, thực tiễn) khiến cho việc tìm về
Thiên Chúa trở thành hết sức khó khăn, có thể làm cho họ phải thất vọng.
Tựu
trung, đối với những người ngoài Kitô giáo có thiện chí, Thiên Chúa sẽ đưa họ tới
Giáo Hội bằng ân sủng của Ngài. Ngoài ra, "tôn giáo" họ theo cũng
nâng đỡ họ và ngoại cảnh xã hội (chuẩn bị cho Phúc Âm) còn giúp họ sống ngay
chính theo lương tâm. Và như vậy họ được qui hướng tới Giáo Hội.
Những
trở ngại mà các người ngoài Kitô giáo gặp phải trên đường tìm về Thiên Chúa
giúp ta nhận rõ tầm quan trọng của việc truyền giáo trong đời sống Giáo Hội. Ở
số cuối cùng trong chương hai này, Công Ðồng lặp lại tính cách phổ quát của Dân
Chúa dưới khía cạnh đặc biệt là nỗ lực truyền giáo.
21 Xem Benedictô XV,
Tông thư Maximum illud: AAS 11 (1919), trg 440, nhất là trg 451tt. Piô XI, Tđ.
Rerum Ecclesiae: AAS 18 (1926), trg 68-69. Piô XII, Tđ. Fidei Donum, 21-4-1957:
AAS 49 (1957), trg 236-237.
22 Xem Didachè, 14:
x.b. Funk I, trg 32. T. Giustinô, Dial. 41: PG: 6, 564, T. Ireneô, Adv. Haer.
IV, 17,5: PG 7, 1023; Harvey, 2, trg 199t. CÐ Trentô, khóa 22, ch. 1: Dz 939
(1742).
Một
số người công kích vì dựa vào những sự mập mờ của những công cuộc truyền giáo
và vì chủ trương giản dị rằng người lương chỉ cần có thiện chí và với ơn Chúa
giúp cũng có thể được cứu rỗi; để chống lại, Công Ðồng đã quả quyết việc truyền
giáo cần thiết trong viễn tượng phổ quát riêng biệt của chương hai này. Quả quyết
bằng cách định nghĩa rõ ràng mục đích việc truyền giáo và những nguyên tắc của
việc tông đồ. Sau đây là những chủ đề:
a)
Việc truyền giáo đặt nền tảng trong sứ mệnh của Ba Ngôi. Như Cha đã sai Con
mình, Ðấng Cứu Thế cũng sai các Tông Ðồ đi rao giảng, thánh hóa và chăn dắt;
Giáo Hội có nhiệm vụ phải lưu truyền sứ mệnh ấy. Ðó là lý do khiến Giáo Hội tồn
tại. Giáo Hội là Giáo Hội truyền giáo do huấn lệnh truyền giáo (Mt 28,19-20).
b)
Ðối tượng riêng của việc truyền giáo khi thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận, không
những là rao giảng Chúa Kitô, nhưng còn phải thiết lập các Giáo Hội bản xứ, và
chính những Giáo Hội này cũng mang tính cách truyền giáo nơi người đồng hương của
mình. Hoạt động truyền giáo là chuẩn bị cho con người đón nhận đức tin và phép
Thánh Tẩy, giũ bỏ lầm lạc để gia nhập Giáo Hội. Làm thế là thừa nhận và thanh tẩy
cho thành tựu tất cả những mầm mống thiện hảo trong tâm hồn mọi người và mọi
dân tộc (chuẩn bị cho Phúc Âm).
c)
Môn đệ nào của Chúa Kitô cũng có nhiệm vụ này. Nhưng chính những Linh Mục có một
nhiệm vụ không thể thay thế được. Tất cả Giáo Hội sẽ nhờ kinh nguyện và việc
làm để cố gắng thực hiện lần lần sự sung mãn của Dân Chúa, vì vinh quang Chúa
Cha trong Chúa Kitô.
Một
khoa thần học truyền giáo chính đáng phải lưu ý tới ba khía cạnh mà Công Ðồng
đã nêu ra đây: vấn đề là phải biết tổng hợp cả ba khía cạnh: khía cạnh nhân loại
bản vị (ơn cứu độ của con người), khía cạnh Giáo Hội (việc thiết lập Giáo Hội)
và tương quan của cả hai với một ý niệm tập trung về Chúa Kitô và Ba Ngôi.
Trong
hai chương trên, Công Ðồng đã đặt nền móng vững chắc cho một khoa Giáo Hội học
chính thực. Việc mô tả các cơ cấu của Giáo Hội trong các chương sau cũng sẽ dựa
trên những nền tảng tín lý đó. Các chương sau này phải được quan niệm dưới ánh
sáng mạc khải về mầu nhiệm Giáo Hội và Dân Chúa thì mới có giá trị đích thực.
23* Chương này rất quan
trọng. Muốn hiểu rõ cần phải lưu ý mấy điểm:
a)
Chương này lặp lại và hiệu chính cho hiến chế "Pastor Aeternus" của
Công Ðồng Vaticanô I.
b)
Bởi vậy, hầu hết là nói về chức Giám Mục, và cũng chỉ mới đề cập được một phần
như Công Ðồng Vaticanô I, vì Công Ðồng này hầu như chỉ bàn về quyền tối thượng của
Giáo Hoàng. Ðể có một cái nhìn toàn diện, có lẽ nên đề cập tới cả hai Công Ðồng.
Còn khá nhiều vấn đề thần học chưa được giải quyết. Hy vọng một Công Ðồng mai hậu
sẽ có thể đạt được một sự tổng hợp mà chúng ta không có.
Văn
thể và bút pháp chương này khác xa với hai chương trước. Văn thể của hai chương
trước bàng bạc Thánh Kinh, còn văn thể ở đây cứng chắc hơn, ít biểu tượng hơn
và rõ rệt hơn theo quan điểm pháp lý. Vả lại, bản văn đã được bàn cãi nhiều khiến
có thể nhận ra ngày nó đã được làm đi làm lại, đầy những chú thích và sửa chữa.
Bởi vậy đôi khi bản văn trở thành nặng nề và rắc rối (khiến văn phòng Tổng Thư
Ký của Công Ðồng đã phải thêm phần phụ trương sau cùng, tức phần "Chú
thích sơ khởi").
Dầu
vậy kết cấu nội tại cũng sáng sủa và bao gồm:
-
Một phần nhập đề: cho biết nội dung của chương và xác định rõ rệt mục đích mà
Công Ðồng muốn đề ra.
-
Bốn tiểu mục về:
(1)
Nguồn gốc chức Giám Mục (các số 19-21).
(2)
Giám Mục Ðoàn, một vấn đề được thảo luận sôi nổi (các số 22-23).
(3)
Thừa tác vụ Giám Mục và những quyền hành của Giám Mục (các số 24-27).
(4)
Những thừa tác viên cấp dưới: Linh Mục và Phó Tế (các số 28-29).
Nội
dung của chương này bàn về cơ cấu phẩm trật trong Giáo Hội. Dân Chúa là một dân
có tổ chức, một cộng đoàn chứ không phải là một đám đông ô hợp, trong đó có quyền
bính được thi hành trong Giáo Hội và trên Giáo Hội do các Tông Ðồ và các người
kế vị hoặc các cộng tác viên tuyển chọn và chỉ định. Công Ðồng cũng xác định 3
đặc tính của quyền bính này:
a)
Ðây là một thứ quyền bính được ủy thác: không chỉ thi hành nhân danh Chúa Kitô
mà thôi, nhưng còn phải biểu lộ Chúa Kitô phục sinh hiện diện trong Giáo Hội của
Người; quyền bính ấy phải được Thánh Thần Chúa Kitô hỗ trợ.
b)
Quyền bính không phải là để thống trị, nhưng là để phục vụ cho cộng đoàn; việc
phục vụ trước hết là giảng huấn Lời Chúa và thông ban ơn Ngài qua bí tích; còn
việc điều hành và cai trị chỉ là phụ. Các vị thủ lãnh Giáo Hội là những người
cha trong đức tin và là những thừa tác viên của bí tích.
c)
Quyền bính là do Chúa ban, nhưng liên lạc mật thiết với cộng đoàn; và theo kiểu
nói của Thánh Kinh, quyền bính có sứ mệnh "chăn dắt" cộng đoàn.
Chương IV
1 Xem CÐ Vat. I, Hiến
chế tín lý về Giáo Hội Chúa Kitô Pastor aeternus: Dz 1821 (3050t).
2 Xem CÐ Firenze,
Decretum Pro Graecis: Dz 694 (1307) và CÐ Vat. I, n.v.t.,: Dz 1826 (3059).
Số
này liên kết chương II và chương III lại với nhau. Chúa Kitô muốn thiết lập phẩm
trật vì lợi ích cho toàn thể Giáo Hội. Phẩm trật vừa như là một trong những thừa
tác vụ được Chúa Kitô thiết lập, vừa như là một công cuộc phục vụ huynh đệ cho
tất cả Dân Chúa. Khác với Vaticanô I vì coi phẩm trật như một dữ kiện tiên quyết,
Công Ðồng Vaticanô II lại khởi đầu từ Dân Chúa, sau đó mới cho biết phẩm trật
là để phục vụ Dân ấy.
3 Xem Liber
Sacramentorum của T. Gregoriô, kinh tiền tụng ngày sinh nhật của Thánh Mattheô
và Tôma: PL 78,51 và 152; xem Cod. Vat. Lat. 3548, f. 18. T. Hilariô, In Ps.
67,10: PL 9,450; CSEL 22, trg 286. T. Hieronimô, Adv. Jovin. 1,26: PL 23, 247A.
T. Augustinô, In Ps. 86,4 : PL 37, 1103. T. Gregoriô Cả, Mor. in Job, XXVIII, V
: PL 76 455-456. Primasiô, Comm. in Apoc. V : PL 68, 924 BC. Paschasiô Radb. In
Mt, c. VIII, ch. 16: PL 120, 561C. Xem Leô XIII thư Et Sane, 17-12-1888 : AAS
21 (1888), trg 321.
Nhóm
Tông Ðồ được Chúa Kitô tuyển chọn là một nhóm có cá tính riêng mà Công Ðồng đã
nêu ra những đặc điểm như sau: họ sống với Chúa, được Chúa sai đi rao giảng Nước
Trời, họ liên kết thành một Tông Ðồ Ðoàn, và có một thủ lãnh. Khó khăn là ở điểm
thứ ba này, vì người ta có thể hiểu từ ngữ Tông Ðồ Ðoàn theo nghĩa hoàn toàn
pháp lý. Nhưng đây không phải thế, vì Công Ðồng không xử dụng từ ngữ theo nghĩa
pháp lý, nhưng theo nghĩa là một nhóm cố định, do Chúa thiết lập (x. số 1 của
phần "Chú thích sơ khởi"). Ðặc tính Tông Ðồ Ðoàn còn được biểu lộ qua
sự kiện chỉ mình Phêrô là thủ lãnh của nhóm. Quả quyết sự hiện hữu của Tông Ðồ
Ðoàn là để chuẩn bị quả quyết về Giám Mục Ðoàn (số 22).
4 Xem CvTđ 6,2-6.
11-30; 13,1; 14,23; 20,17; 1Th 5,12-13; Ph 1,1; Col 4,11 và nhiều chỗ khác.
5 Xem CvTđ 20,25-27;
2Tm 4,6t so sánh với 1Tm 5,22; 2Tm 2,2; Tit 1,5. T. Clementê thành Roma, Ad
Cor. 44, 3: x.b. Funk, I, trg 156.
6 T. Clementê thành
Roma, Ad Cor, 44, 2 : x.b. Funk, I, trg 154t.
7 Xem Tertullianô,
Praescr. Haer. 32 : PL 2,52t. T. Inhaxiô Tử đạo, nhiều chỗ khác.
8 Xem Tertullianô,
Praescr. Haer. 32: PL 2,53.
9 Xem Ireneô, Adv.
Haer. III, 3,1: PG 7,848A; Harvey 2,8; Sagnard, trg 100:
"Manifestatam".
10 T. Ireneô, Adv.
Haer. III, 3,1 : PG 7,847 ; Harvey 2,7 ; Sagnard, trg 100:
"Custoditur", xem, n.v.t., IV, 26,2 : cột 1053; Harvey 2,236, cả IV,
33,8: cột 1077; Harvey 2,262.
11 T. Inhaxiô Tử đạo,
Philad., lời mở đầu: x.b. Funk I, trg 264.
12 T. Inhaxiô Tử đạo,
Philad., I,1; Magn. 6,1: x.b. Funk I, trg 264 và 234.
13 T. Clementê thành
Roma, n.v.t., 42,3-4; 44, 3-4; 57,1-2: x.b. Funk, I, trg 152, 156, 171t. T.
Inhaxiô Tử đạo, Philad., 2; Smyrn. 8; Magn. 3; Trall.7: x.b. Funk I, trg 265t.;
281; 232; 246t. v.v� T. Giustinô, Apol., 1,65: PG 6,428; T. Cyprianô,
Epist., nhiều chỗ khác.
14 Xem Leô XII, Tđ.
Satis cognitum, 29-6-1896: AAS 28 (1895-96), trg 732.
15 Xem CÐ Trentô, Sắc
lệnh De sacr. Ordinis, ch. 4: Dz 960 (1768); CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý về Giáo
Hội Chúa Kitô Pastor aeternus, ch. 3: Dz 1828 (3061). Piô XII, Tđ Mystici
Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 209 và 212, CIC, kh. 329 đoạn 1.
16 Xem Leô XIII, thư
Et Sane, 17-12-1888: AAS 21 (1888), trg 321t.
27* Số 20: Công Ðồng dạy rằng do việc Chúa thiết
lập mà các vị Giám Mục trở nên những người kế vị các Tông Ðồ, và với tước hiệu ấy,
các ngài là những mục tử chăn dắt Giáo Hội. Trong đoạn này người ta đã cố gắng
đưa ra những nhận xét để đánh giá trị một cách chính đáng bao nhiêu có thể những
lời chứng của truyền thống. Lịch sử của truyền thống về sự kế vị và về các chứng
tá chính yếu một khi được trình bày rồi, Công Ðồng mới quả quyết hai điểm quan
trọng ở đoạn c:
a)
Sự trường tồn của thừa tác vụ tông đồ nơi các Giám Mục để chăn dắt Giáo Hội
Chúa.
b)
Và kết quả của sự trường tồn ấy là: các Giám Mục là những người kế vị các Tông
Ðồ. Công Ðồng không muốn định tín giáo lý này, nhưng giảng dạy một cách chắc chắn,
vì xử dụng những kiểu nói chuyên biệt "Thánh Công Ðồng dạy rằng". Sự
kế vị là do Chúa lập, nhờ đó mà các Giám Mục trở thành mục tử Giáo Hội. Công Ðồng
không đi vào vấn đề xem các Giám Mục có được thừa kế các đặc quyền riêng biệt của
các Tông Ðồ hay không, nhưng chỉ minh nhiên quả quyết tông vụ chăn dắt Giáo Hội
Chúa được nối tiếp nơi các Giám Mục.
17 Xem T. Leô Cả,
Serm. 5,3: PL 54,154.
18 CÐ Trentô, khóa 23,
ch. 3, trích 2Tm 1,6-7 để chứng minh phép truyền chức thánh thực sự là một bí
tích: Dz 959 (1766).
19 Trong Trad. Apost.
3, x.b. Botte, Sources Chrétiennes, trg 27-30, Giám Mục có chức linh mục cao nhất
(primatus sacerdotii). Xem Sacramentarium Leonianum, x.b. C. Mohlberg,
Sacramentarium Veronense, Roma, 1955, trg 119: "ad sumni sacerdotii
ministerium... Comple in sacerdotibus tuis mysterii tui summam"... n.t.,
Liber Sacramentorum Romanae Ecclesiae, Roma, 1960, trg 121-122: "Lạy Chúa,
xin ban cho họ ngai giám mục để họ điều khiển Giáo Hội Chúa và toàn dân":
x. PL 78, 224.
20 Xem Trad. Apost. 2:
x.b. Botte, trg 27.
21 Xem CÐ Trentô, khóa
23, ch. 4, dạy rằng bí tích truyền chức in dấu không hay mất: Dz 960 (1767).
Xem Gioan XXIII, huấn từ Jubilate Deo, 8-5-1960: AAS 52 (1960), trg 466. -
Phaolô VI, bài giảng tại giáo đường Vaticanô, 20-10-1963: AAS 55 (1963), trg
1014.
22 T. Cyprianô, Epist.
63,14: PL 4, 386; Hartel, IIIB, trg 713: "Linh mục thực sự hoạt động thay
Chúa Kitô". T. Gioan Kim Khẩu, In 2 Tim, bài giảng 2,4 ; PG 62,612: Linh Mục
là "hình ảnh" (symbolon) của Chúa Kitô. T. Ambrosiô, In Ps 38,25-26:
PL 14,1051-52: CSEL 64,203-204. Ambrosias-ter, In 1 Tim 5,19: PL 17,479 C và In
Eph. 4,11-12: cột 387. C. Theodorô Mops., Hom. Catech. XV, 21 và 24: x.b.
Tonneau, trg 497 và 503. Hesychio Hieros., In Lev. L. 2, 9,23: PG 93,894 B.
Bố
cục của số này như sau: điểm quả quyết trong số 20 (chính Chúa đã lập các Giám
Mục kế vị Tông Ðồ làm mục tử Giáo Hội) được bổ túc bằng ba xác định mới:
(1)
Chúa Kitô hiện diện giữa tín hữu trong con người của Giám Mục.
(2)
Sự hiện diện ấy được chuyển đạt qua các nghi thức đặt tay, là nhờ hồng ân
thiêng liêng của Chúa Thánh Thần.
(3)
Và như vậy, sự kế vị các Tông Ðồ được chuyển trao nhờ một bí tích là bí tích
truyền chức Giám Mục.
Chức
Giám Mục là chức linh mục tối thượng. Qua việc truyền chức, vị Giám Mục lãnh nhận
sự sung mãn của bí tích truyền chức. Việc truyền chức đem đến cho vị Giám Mục 3
nhiệm vụ: thánh hóa, giảng dạy và cai trị (x. các số 25-27). Công Ðồng đã soạn
thảo đoạn này để giải quyết cho xong cuộc bàn cãi về bí tích tính của chức Giám
Mục, vì có một số người chỉ coi đó là một hình thức bổ túc cho chức linh mục.
Do đó mà từ nay phải nhìn bí tích truyền chức nơi vị Giám Mục chứ không phải
nơi Linh Mục, vì Linh Mục chỉ tham dự vào sự sung mãn của chức tư tế Giám Mục
(x. số 28). Như thế con đường đã được chuẩn bị để quả quyết về Giám Mục Ðoàn.
Tiết
này được tranh luận nhiều nhất, có nhiều chú thích và sửa đổi nhất, đặc biệt là
số 22: bởi vậy công việc soạn thảo sau cùng rất nặng nề. Người ta biết có hai bản
phúc trình ngược hẳn nhau được đệ trình lên Công Ðồng, một của Giám Mục
Parente, ủng hộ bản văn, sau cùng được chấp thuận với một ít điều sửa đổi, và một
của Giám Mục Franic trình bày những khó khăn chống với bản văn. Cũng nhờ
"bản phúc trình" sau này mà có phần chú thích sơ khởi, đến giờ chót
được đặt thêm vào bản văn để xoa dịu một vài lập trường quyết liệt. Khó khăn
chính là vì người ta sợ Cộng Ðoàn tính của Giám Mục có thể phương hại tới tín
điều về quyền tối thượng của Giáo Hoàng. Khó khăn khác nữa là vì từ ngữ Giám Mục
Ðoàn, nếu hiểu theo nghĩa pháp lý, sẽ đưa đến sự bình đẳng giữa các phần tử
trong đoàn và như vậy, dường như quyền tối thượng bị đe dọa. Sau cùng, từ ngữ
đó không có trong Thánh Kinh hay trong Truyền Thống. Công Ðồng vẫn lưu ý đến những
vấn nạn đó khi soạn thảo bản văn và cũng vì vậy mà xác nhận một lần nữa về quyền
tối thượng của Giáo Hoàng trong một bản văn đề cập đến các Giám Mục.
23 Xem Eusebiô, Hist.
Eccl., V, 24,10 : GCS II,1, trg 495; x.b. Bardy, Sources Chr. II, trg 69.
Dionysiô, trong Eusebiô, n.v.t. VII, 5,2: GCS II, 2, trg 638t ; Bardy, II trg
168t.
24 Xem về các Công Ðồng
thời trước, Eusebiô, Hist. Eccl. V, 23-24: GCS II, 1, trg 488 tt; Bardy, II,
trg 66t. và nhiều chỗ khác. CÐ Nicea, đ.th. 5: Conc.Oec. Decr., trg 7.
28 Xem CÐ Vat I, lược
đồ Hiến chế tín lý, II, De Eccl. Christi, ch. 4: Mansi 53, 310. Xem phúc trình
của Kleutgen về lược đồ sửa lại: Mansi 53, 321B-322B và tuyên bố của Zinelli:
Mansi 52, 1110. Cũng xem T. Leô Cả, Serm. 4,3 : PL 54, 151A.
(1)
Ðề xướng thứ nhất quả quyết sự hiện hữu của Giám Mục Ðoàn kế vị Tông Ðồ Ðoàn,
phác họa một chứng cứ lịch sử, và liệt kê những điều kiện gia nhập đoàn. Ðây là
một trong những quả quyết quan trọng nhất của Công Ðồng mà người ta muốn bày tỏ
tính cách bổ túc của nó cho Công Ðồng Vaticanô I. Công Ðồng xác nhận nguồn gốc
Tông Ðồ Ðoàn là do Chúa, hợp với tinh thần Tân Ước (x. số 19), và Tông Ðồ Ðoàn được
các người kế vị là Giám Mục tiếp nối liên tục. Sự liên tục đó là một kết quả hợp
lý vì Chúa đã hứa cho Giáo Hội được trường tồn. Nhiều tài liệu của Truyền thống
cũng xác nhận sự liên tục này. Ðược phong chức Giám Mục và hiệp thông giáo phẩm
với Thủ Lãnh cũng như với các phần tử trong đoàn, là đã gia nhập Giám Mục Ðoàn.
Giám Mục Ðoàn luôn đòi phải có Thủ Lãnh.
(2)
Giám Mục Ðoàn cũng có quyền bính tối cao và trọn vẹn trên toàn thể Giáo Hội. Ðiều
quả quyết này gây ra nhiều vấn đề thần học quan trọng, vì như chúng ta biết,
Giáo Hoàng cũng có đặc quyền ấy. Việc soạn thảo đã cố gắng minh giải vấn đề với
câu: "Hiệp nhất với Thủ Lãnh (là Giáo Hoàng Roma), Giám Mục Ðoàn cũng có
quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội, nhưng chỉ có thể thi
hành quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng". Như vậy phải chăng có
hai quyền bính tối cao và trọn vẹn trong Giáo Hội? Làm sao có thể thế được? Bản
phúc trình chính thức đã trả lời: "Vấn nạn sẽ không còn một khi lưu ý là
trong Giáo Hội không phải có hai nhưng chỉ một quyền bính mà Chúa Kitô đã trao
ban cho toàn thể Tông Ðồ Ðoàn, cho cả Phêrô lẫn các Tông Ðồ. Chúng ta cũng nhận
rằng quyền bính ấy thuộc về một mình Giáo Hoàng, và được thực thi trên các Giám
Mục chỉ có trong thường năng; muốn có trong hiện năng phải tùy thuộc vào Giáo
Hoàng. Như vậy, Giám Mục Ðoàn không hạn chế quyền tối cao của Giáo Hoàng; nhưng
chỉ thừa nhận và chuẩn y cho chức vị Giám Mục theo tư tưởng của Giáo Hội sơ
khai: được phong chức Giám Mục là được tham dự thường năng vào quyền hành Chúa
Kitô, để khi được Giáo Hoàng mời gọi, các Giám Mục có thể thực thi quyền hành
đó ở hiện năng trong cả Giáo Hội.
Ðể
lưu ý đến những dự liệu này và những dự liệu của chú thích sơ khởi, chúng ta
nên phân biệt:
-
Quyền hành (để điều khiển Giáo Hội) nơi Giám Mục Ðoàn hiệp thông với Giáo
Hoàng, là một vị trong đoàn với tư cách thủ lãnh.
-
Sự thực thi (tối cao, trên toàn thể Giáo Hội) quyền hành đó đòi phải được Giáo
Hoàng mời gọi, đòi phải hiệp thông hữu hiệu với Ngài hoặc ít nhất không chống lại
Ngài.
-
Sự chỉ định pháp lý (theo giáo luật), theo đó Giáo Hoàng trao phó cho một Giám
Mục một lãnh thổ hay một nhiệm vụ và ban quyền tham dự vào trách nhiệm tập đoàn
trên toàn thể Giáo Hội.
(3)
Trong thực tại Giám Mục Ðoàn và trong sự thực thi quyền hành tập đoàn, toàn thể
hàng giáo phẩm phải phục vụ cho việc hiệp nhất Dân Chúa. Giáo Hoàng là người
gìn giữ việc hiệp nhất đó cả trên bình diện cơ cấu lẫn bình diện pháp lý và cai
trị. Với các Giám Mục, thì Giám Mục Ðoàn chính là dấu hiệu của việc hiệp nhất
này trong Giáo Hội, được đảm bảo qua sự hiệp thông tập đoàn và qua những mối
tương giao huynh đệ trong hàng Giám Mục.
(4)
Sự thực thi quyền Giám Mục Ðoàn: quyền hành tối cao của Giám Mục Ðoàn được thực
thi bằng hai cách: trong Công Ðồng Chung do Giáo Hoàng triệu tập (hoặc ít nhất
được Ngài chấp thuận); ngoài Công Ðồng, do các Giám Mục rải rác khắp hoàn cầu
khi được Giáo Hoàng mời gọi thực thi một việc có tính cách tập đoàn.
31 Xem T. Cyprianô,
Epist. 66, 8: Hartel III, 2, trg 733: "Giám Mục trong Giáo Hội và Giáo Hội
trong Giám Mục".
32 Xem T. Cypianô,
Epist. 55, 24: Hartel, trg 642, hàng 13: "Una Ecclesia per totum mundum in
multa membra divisa". Epist. 36,4: Hartel, trg 575, hàng 20-21.
34 Xem T. Hilariô
Pict., In Ps. 14,3: PL 9, 206: CSEL 22, trg 86. T. Gregoriô Cả, Moral. IV,
7,12: PL 75, 643 C. Basiliô Cả, In Is. 15, 296: PG 30,637C.
35 T. Coelestinô,
Epist. 18, 1-2, gửi đến Công Ðồng Eph.: PL 50, 505AB; Schwartz, Acta Conc. Oec.
I, 1,1, trg 22. Xem Benedictô XV, Tông thư Maximum illud: AAS 11 (1919), trg
440. Piô XI, Tđ. Rerum Eccl., 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 69. Piô XII, Tđ.
Fidei Donum, n.v.t.
36 Leô XIII, Tđ.
Grande munus, 30-9-1880: AAS 13 (1880), trg 145. - Xem CIC, kh. 1327, kh. 1350
đoạn 2.
37 Về những quyền của
các Tòa giáo chủ, xem CÐ Nicea đ. th. 6 về Alexandria và Antiochia, và đ. th. 7
về Giêrusalem: Conc. Oec. Decr., trg 8. CÐ Lateranô IV, năm 1215, Hiến chế V:
De dignitate Patriarcharum: n.v.t., trg 212. CÐ Ferr. - Flor.: n.v.t., trg 504.
31* Số 23: Trên bình diện liên lạc chiều ngang
giữa các Giám Mục, sự thực thi quyền Giám Mục Ðoàn thường được khai triển dưới
ba hình thức:
-
Giám Mục là dấu hiệu và khí cụ hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương (x. sắc lệnh
về nhiệm vụ mục vụ của Giám Mục, số 6). Từ đó Giám Mục quan tâm đến trách vụ của
toàn thể Giáo Hội.
-
Trách nhiệm tập đoàn về việc loan báo Phúc Âm cho cả thế giới: bởi vậy phải hỗ
trợ các Giáo Hội tại miền truyền giáo và các Giáo Hội ít được nâng đỡ (x. sắc lệnh
về hoạt động Truyền Giáo, số 20).
-
Ý nghĩa và giá trị các Giáo Hội có tòa thượng phụ ở Ðông Phương và các Giáo Hội
khác phát sinh ra từ đó. Phải tôn trọng các Giáo Hội này vì có truyền thống và
kỷ luật riêng.
Số
23 kết thúc bằng vài dòng vắn tắt nói về Hội Ðồng Giám Mục qui tụ các Giám Mục
trong một lãnh thổ hay trong một quốc gia.
38 Xem CIC cho Giáo Hội
Ðông Phương, các kh. 216-314: về các Giáo Chủ; các kh. 324-339: về các Ðại Tổng
Giám Mục; các kh. 362-391: về các vị chức sắc khác; đặc biệt các kh. 238, đoạn
3; 216; 240; 251; 255: về các Giám Mục được các Giáo Chủ đặt lên.
33* Số 24: Nói về thừa tác vụ Giám Mục, tiếp tục
cho số 20. Ở đây không bàn về chức vị hay quyền bính, nhưng về thừa tác vụ Giám
Mục. Công Ðồng nhấn mạnh tới đặc tính phục vụ của những người được Chúa kêu gọi
cai trị Dân Chúa, theo kiểu nói của Thánh Kinh (x. Mt 20, 24-28; Gio 13,1-17).
Giám Mục là người phục vụ cho phần dân được trao phó, và phục vụ cho toàn thế
giới. Ngài phải nỗ lực rao giảng và làm cho Phúc Âm sống động, và nếu cần, phải
hiến mạng sống cho đoàn chiên. Muốn được thế, các Giám Mục nhận lấy sức mạnh của
Chúa Thánh Thần, Ðấng thánh hiến các Ngài để phục vụ. Công Ðồng còn thêm một đoạn
nữa bàn đến sứ mệnh theo giáo luật, nghĩa là Giám Mục được quyền cấp trên chỉ định
đặc trách một lãnh thổ hay một số dân nhất định. Có ba cách thức chỉ định được
coi là có hiệu lực: tập tục chưa bị đoạn tiêu, luật lệ được Tòa Thánh ban hành
hay thừa nhận, do chính Giáo Hoàng chỉ định. Với hai cách đầu tiên, phải có sự
chấp thuận minh nhiên hay mặc nhiên của Tòa Thánh, nếu không sẽ bất thành sự.
Ba
số kế tiếp đề cập đến quyền năng Giám Mục (các số 25-27). Nhiều nhà thần học
phân biệt thành hai quyền năng phẩm trật: quyền theo chức vị và quyền theo sứ mệnh.
Công Ðồng trái lại đã chọn kiểu nói ba quyền năng: giảng dạy, thánh hóa và cai
trị Dân Chúa, và cho như vậy là tiện lợi hơn, vì cách phân chia này cho phép mô
tả các quyền năng, và nếu cần, minh xác các quyền năng đó. Có lẽ còn lý do nữa
là liên kết quyền năng của giáo phẩm với ba nhiệm vụ của Chúa Kitô (được nhắc tới
trong các số 34-36): nhiệm vụ tư tế, tiên tri và vương giả.
39 Xem CÐ Trentô sắc lệnh
De Reform., khóa V, ch. 2, số 9, và khóa XXIV, đ.th. 4: Conc. Oec. Decr., trg
645 và 739.
40 Xem CÐ Vat. I, Hiến
chế tín lý Dei Filius, 3: Dz 1712 (3011). Xem ghi chú kèm theo Lược Ðồ I về De
Eccl. (trích từ Thánh Rob. Bellarminô): Mansi 51, 579C, và Lược Ðồ đã được sửa
đổi của Hiến Chế II De Eccl. Christi, với phần chú giải củ Kleutgen: Mansi 53,
313 AB. Ðức Piô IX, Thư "tuas libenter": Dz 1683 (2879).
Số
này trình bày những tiêu chuẩn định giá trị lời giảng dạy của giáo phẩm, trong
khuôn khổ Giám Mục Ðoàn, và trình bày nguyên tắc quyền bính. Nội dung của lời
giảng, những đối tượng khác nhau của giáo huấn Giáo Hội được phân tích trong sắc
lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (các số 12-14).
Việc
soạn thảo bản văn gặp nhiều khó khăn. Công Ðồng muốn giữ y nguyên định nghĩa về
quyền giáo huấn bất khả ngộ của Giáo Hoàng, vừa muốn quả quyết quyền giáo huấn
của các Giám Mục. Ðiều xác định căn bản như sau: nhiệm vụ đầu tiên của Giám Mục
là rao giảng Phúc Âm. Bản văn chia ra bốn phần:
-
Giám Mục là tiến sĩ của đức tin nên phải tuân theo lời giảng dạy của các Ngài.
-
Bất khả ngộ tính của Giám Mục khi đồng thanh giảng dạy không những trong Công Ðồng
Chung mà ngay cả khi các Ngài thông hảo với nhau và với Ðấng kế vị Phêrô để giảng
dạy những giáo lý thuộc đức tin và phong hóa. Ðây là đề tài cố hữu trong khoa
thần học.
-
Bất khả ngộ tính của một mình Giáo Hoàng được xác định khéo léo ở đây, trong
khuôn khổ của việc giảng dạy được các Giám Mục thực thi trong tập đoàn.
-
Sự tương hợp của giáo thuyết Giáo Hội với Mạc Khải.
48 Lời nguyện lễ tấn
phong Giám Mục theo nghi lễ Bizantinô: Euchologion to mega Roma, 1873, trg 139.
57 Xem đoạn "khảo
duyệt" ở đầu lễ tấn phong Giám Mục và kinh nguyện sau lễ tấn phong Giám Mục,
sau Te Deum.
Số
này tuy dài nhưng khúc chiết, được sắc lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (số 15) bổ
túc. Ý tưởng chính là: Giám Mục là người chủ chốt ban phát các mầu nhiệm của
Chúa, là người tổ chức, phát động và bảo trì đời sống phụng vụ. Ngài chủ tọa
thánh lễ cộng đồng, có trách vụ loan báo lời Chúa trong công hội phụng vụ. Ngài
còn là thừa tác viên chủ yếu của các bí tích. Kết luận của số này là lời ám chỉ
đến gương mẫu đời sống mà các mục tử phải nêu ra.
58 Xem Benedictô XIV,
Br. Romana Ecclesia, 5-10-1752, đoạn 1 Bullarium Benedicti XIV, bộ IV, Roma
1758, 21: "Giám Mục thay mặt Chúa Kitô và chu toàn công cuộc của
Ngài". Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, n.v.t., trg 211: "mỗi Giám Mục
chăn dắt và điều khiển đoàn chiên được giao phó nhân danh Chúa Kitô".
59 Xem Leô XIII, Tđ.
Satis cognitum, 29-6-1896: AAS 28 (1895-96), trg 732, n.v.t., thư Officio
Sanctissimo, 22-12-1887: AAS 20 (1887), trg 264. Piô IX, Tông thư gửi các Giám
Mục Ðức, 12-3-1875 và huấn từ 15-3-1875: Dz 3112-3117 trong lần phát hành mới.
60 Xem CÐ Vat. I: Hiến
Chế tín lý Pastor aeternus, 3: Dz 1828 (3061). Xem bài phúc trình của Zinelli:
Mansi 52, 1114 D.
Ðoạn
này còn được Sắc Lệnh về nhiệm vụ Giám Mục (số 16) bổ túc. Trong số đó, Công Ðồng
xác định chi tiết những bổn phận mục vụ của người tông đồ, đặc biệt đối với
linh mục, và cả với những tín hữu ly khai cũng như những người chưa chịu phép
Thánh Tẩy. Công Ðồng đã giữ lại và lưu ý lời quả quyết này là: các Giám Mục là
đại diện và thừa phái của Chúa Kitô chứ không phải đại diện Giáo Hoàng, vì lẽ
các Ngài thi hành quyền năng riêng biệt của các Ngài, và việc gọi các Ngài là
thủ lãnh phần dân các Ngài hướng dẫn, quả là điều xác đáng. Ở đây Công Ðồng
cũng nhấn mạnh đến ý tưởng phục vụ: quyền bính Giám Mục không để thống trị;
ngoài ra còn kín đáo ám chỉ tới trách nhiệm của Giám Mục đối với những người
chưa thuộc về đoàn chiên duy nhất. Giám Mục không chỉ bận tâm riêng với tín hữu,
nhưng có trách nhiệm đối với mọi người; ngay trong giáo phận, Ngài phải là một
vị thừa sai. Câu sau cùng nhắc nhở cho tín hữu phải biết liên kết với Giám Mục
của mình như Giáo Hội đã liên kết với Chúa Kitô và Chúa Kitô với Chúa Cha.
Công
Ðồng biên soạn và khai triển đoạn này trong những cuộc bàn cãi vào tháng 9 năm
1964. Về linh mục, số 29 còn được bổ túc và minh định qua Sắc Lệnh về nhiệm vụ
Giám Mục (các số 28-35). Công Ðồng chưa có thời giờ quảng diễn một khoa thần học
về chức linh mục thừa tác, nên tạm thời chỉ nói sơ qua khi bàn về chức Giám Mục.
Sự liên lạc giữa hai bên khiến Công Ðồng liệt kê được những quả quyết chính yếu
trong những số này để kết thúc cho một chương khá dài, đòi nhiều công phu.
64 Xem Innocentiô I,
Epist. ad Decentium: PL 20, 554A; Mansi 3, 1029; Dz 98 (215): "Linh mục
tùy thuộc và hàng tư tế bậc thấp, nên không có quyền tư tế tối cao". T.
Cyprianô, Epist. 61, 3: x.b. Hartel, trg 696.
65 Xem CÐ Trentô,
n.v.t.: Dz 956-968 (1763-1778), và đặc biệt đ.th. 7: Dz 967 (1777). Piô XII,
Tông hiến Sacramentum Ordinis: Dz 2301 (3857-61).
66 Xem Innocentiô I,
n.v.t. - T. Gregoriô Naz., Apol. II, 22: PG 35, 432 B. Dionysiô Giả, Eccl.
Hier., 1,2: PG 3,372 D.
67 Xem CÐ Trentô, khóa
22: Dz 940 (1743). Piô XII, Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg
553; Dz 2300 (3850).
68 Xem CÐ Trentô, khóa
22: Dz 938 (1739-40) - CÐ Vat. II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosancium
Concilium số 7 và 47: AAS 56 (1964), trg 100-113.
73 Xem T. Inhatiô Tử đạo,
Philad. 4: x.b. Funk I, trg 266. T. Corneliô I, trong T. Cyprianô, Epist. 48,
2: Hartel III, 2, trg 610.
Công
Ðồng không muốn đề cập đến những vấn đề thuộc khoa chú giải do Tân Ước đặt ra,
nhưng chỉ muốn xác định điều này: các linh mục, vì là những thừa tác viên cộng
tác với Giám Mục, nên được tham dự vào quyền hành và sứ mệnh mà Chúa Kitô đã
trao ban cho các Tông Ðồ.
-
Tương quan giữa linh mục Chúa Kitô: tùy theo mức độ thừa tác vụ, linh mục tham
dự vào nhiệm vụ Chúa Kitô là Vị Trung Gian duy nhất, nhiệm vụ được thi hành
trong việc tế tự và trong công hội: thừa tác vụ của ngài là dâng Thánh Lễ, dẫn
dắt đoàn chiên, dùng bí tích mà thánh hóa, rao giảng Lời Chúa.
-
Tương quan giữa linh mục và Giám Mục: lặp lại hình thức linh mục đoàn ngày xưa,
nghĩa là các linh mục tập trung quanh Giám Mục để cùng lãnh trách nhiệm chung
là truyền bá Phúc Âm. Giám Mục phải sống tình cha con, còn linh mục phải vâng lời
và tuân phục. Chức tư tế của linh mục tùy thuộc và tham dự vào chức tư tế của
Giám Mục. Linh mục cộng tác vào công cuộc truyền bá Phúc Âm có tính cách tập
đoàn.
-
Tương quan giữa linh mục với nhau: Công Ðồng mời gọi các linh mục cộng tác với
nhau về mặt thiêng liêng, mục vụ và cả trong những công việc trần thế.
-
Tương quan giữa linh mục và tín hữu: linh mục quan tâm đến việc giúp đỡ các tín
hữu trong Giáo Hội địa phương, nhưng cũng không quên lo cho những người còn ở
ngoài Giáo Hội, và những Kitô hữu không còn sống đạo.
Ðể
kết luận, Công Ðồng ước mong mọi linh mục phải nỗ lực duy trì và phát huy sự hiệp
nhất với nhau và với Giám Mục, vì Phúc Âm và thế giới hôm nay đòi hỏi như thế.
74 Const. Eccl.
Aegyptiacae III, 2: x.b. Funk, Didascalia II, trg 103. - Statuta Eccl. Ant. 37-41:
Mansi 3,954.
75 T. Polycarpô, Ad
Phil. 5,2: x.b. Funk I, trg 300: "Chúa Kitô tự hạ được gọi là Ðấng Phó Tế
mọi người". Xem Didachê 15,1: n.v.t., trg 32. T. Inhatiô Tử đạo, Trall.
2,3: n.v.t., trg 242. Const. Apostolorum, 8,28,4 : x.b. Funk, Didascalia I, trg
530.
Bản
văn công phu được lặp lại hầu như hoàn toàn trong kỳ họp thứ III của Công Ðồng,
gồm hai phần:
-
Nhiệm vụ của phó tế: Công Ðồng dè dặt khi nói đến bí tích tính của chức phó tế,
vì còn một số người phân vân chưa quyết định, nên Công Ðồng không muốn làm cản
trở cho công cuộc tìm hiểu thêm. Ðặc điểm của chức phó tế là phục vụ Giám Mục
và linh mục đoàn. Phục vụ trong ba lãnh vực: phụng vụ, rao giảng lời Chúa và thực
thi bác ái.
-
Tái lập phó tế như một chức thường xuyên. Công Ðồng chỉ quả quyết là có thể tái
lập ở những nơi mà nhu cầu mục vụ đòi hỏi.
Việc
tái lập như thế có tính cách địa phương hơn là cho toàn thế giới, và do quyết định
của hội đồng Giám Mục địa phương với sự chấp thuận của Giáo Hoàng. Về luật độc
thân, phải phân biệt hai trường hợp: người đứng tuổi có thể đã lập gia đình,
còn các thanh niên phải giữ luật độc thân. Bản phúc trình giải thích quyết định
này như sau: lược đồ không chủ trương đòi các phó tế phải có gia đình, dù ở nơi
nào cũng vậy, nhưng chỉ muốn dễ dãi đối với việc truyền chức phó tế cho người
có gia đình khi xét ra cần thiết hay hữu ích.
40* Vị trí và cơ cấu của
chương này cho ta thấy tầm quan trọng của nó. Lần đầu tiên trong lịch sử, Công
Ðồng bàn nguyên một chương đặc biệt về giáo dân, và ở đây mới chỉ nhằm tới nền
tảng thần học về cơ cấu Giáo Hội dưới khía cạnh ơn gọi của giáo dân. Những khía
cạnh thực tiễn như về những hình thức tổ chức chẳng hạn, sẽ được đề cập trong sắc
lệnh đặc biệt về Tông Ðồ Giáo Dân. Và những vấn đề trọng đại nói lên mối tương
quan giữa Giáo Hội và các giá trị trần thế, sẽ được nghiên cứu tỉ mỉ trong Hiến
Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay.
Từ
những cuộc tranh luận trong Công Ðồng và từ chính những nghị định, chúng ta có
thể kết luận rằng, giáo dân không chỉ được định nghĩa một cách đơn giản như
không phải là giáo sĩ, nhưng trước hết phải được công nhận là thuộc về Dân
Chúa. Do đó, chúng ta sẽ nghiên cứu chương này dựa trên chương II, bởi vì những
đặc điểm của giáo dân mô tả ở đây, có liên quan phần lớn tới phần tử Dân Chúa.
(Xem tiếp các chú thích 41* - 49*).
41* Công Ðồng bắt đầu bằng số 31 để trả lời cho
câu hỏi đã được đặt ra: giáo dân là gì trong viễn tượng một khoa thần học về
Giáo Hội? Công Ðồng đưa ra ánh sáng những yếu tố tích cực biểu thị đặc tính của
giáo dân, và yếu tố chính là tính cách trần thế, nghĩa là người đảm nhận qui hướng
về Thiên Chúa những sự việc trần thế mà họ dấn thân. Vậy những đặc điểm của một
giáo dân là:
-
Sống giữa mọi người và trong xã hội nhờ dây liên lạc gia đình và nghề nghiệp.
-
Thánh hóa trần gian như men bột qua việc minh chứng bằng đời sống trong khi thi
hành nhiệm vụ riêng biệt trong nghề nghiệp của mình.
-
Trách vụ làm cho những thực tại trần thế biết ca tụng Ðấng Sáng Tạo và Cứu Thế,
những thực tại mà họ được nối kết chặt chẽ như Chúa Kitô muốn.
Ðó
là tình trạng tạo nên một giáo dân, khiến họ có thể là chứng nhân tông đồ đích
thực giữa trần gian.
Chương V
1 T. Augustinô, Serm.
340 : PL 38, 1483.
42* Số 32 trình bày ý tưởng giáo dân là phần tử
Dân Chúa có địa vị là con cái Chúa, được mời gọi nên thánh và lãnh nhận ơn
Chúa. Về vấn đề này Công Ðồng quả quyết hai điểm:
-
Phép Thánh Tẩy ban cho mọi người lãnh nhận sự bình đẳng căn bản.
-
Mọi người phải liên kết với nhau: mục tử không những là thủ lãnh nhưng còn là
người phục vụ Dân Chúa.
2 Xem Piô XI, Tđ.
Quadragesimo anno, 15-5-1931 : AAS 23 (1931), trg 212t. Piô XII, diễn từ De
quelle consolation, 14-10-1951 : AAS 43 (1951), trg 790t.
3 Xem Piô XII, diễn từ
Six ans se sont écoulés, 5-10-1957 : AAS 49 (1957), trg 927.
43* Số 33: Tiếp theo đó, Công Ðồng tuyên bố hoạt
động tông đồ giáo dân tham dự vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội vì đặt nền tảng
trong phép Thánh Tẩy và phép Thêm Sức. Tính cách đặc biệt của tông đồ giáo dân
là làm cho Giáo Hội hiên diện và hoạt động trong mọi hoàn cảnh của thế giới. Vả
lại, giáo dân vẫn có thể cộng tác chặt chẽ với hàng giáo phẩm trong việc tông đồ
của giáo sĩ đích danh. Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân sẽ lặp lại và quảng diễn ý
tưởng đó.
44* Trong các số 34-36, căn cứ vào ba tước hiệu
căn bản của Chúa Kitô, Công Ðồng muốn chứng minh cách thức đặc biệt mà giáo
dân, với tước hiệu là phần tử Dân Chúa, được tham dự vào các nhiệm vụ khác nhau
đó.
Tham
dự vào chức tư tế cộng đồng. Ðoạn này lặp lại các số 10 và 11 về chức tư tế cộng
đồng của người đã chịu phép Thánh Tẩy và được thực thi trong việc phụng tự: chức
tư tế đó diễn tả và thánh hóa đời sống thường nhật của giáo dân và nhờ đó mà
giáo dân thánh hóa thế gian.
Tham
dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: giáo dân minh chứng đức tin và đức ái
trong thế giới nghề nghiệp và kỹ thuật, trong những điều kiện thông thường mà họ
sinh sống; đặc biệt làm chứng trong tổ ấm và gia đình công giáo, nơi đã được bí
tích Hôn Nhân thánh hóa và thánh hiến.
4 Sách lễ Roma, trích
kinh Tiền Tụng lễ Kitô Vua.
5 Xem Leô XIII, Tđ.
Immortale Dei, 1-11-1885 : ASS 18 (1885), trg 166tt. N.t., Tđ. Sapientiae
christianae, 10-1-1890 : ASS 22 (1888-90), trg 397tt. Piô XII, diễn từ Alla
vostra filiae, 23-3-1958: AAS 50 (1958), trg 220: "tính cách thế tục hợp
pháp và lành mạnh của quốc gia".
47* Số 36: Vương giả. Tham dự vào chức vị vương
giả của Chúa Kitô: ở đây bàn về sự kiện giáo dân thánh hóa thế gian, vì họ đem
sở trường tham gia vào công cuộc tìm kiếm và xây dựng trần thế: vai trò đó làm
họ thích hợp với việc tán trợ công cuộc chuẩn bị cho Phúc Âm (x. số 16) qua những
giá trị nhân bản.
6 Xem Giáo luật kh.
682.
7 Xem Piô XII, diễn từ
De quelle consolation, n.v.t., trg 789: "Trong những trận chiến dứt khoát,
đôi khi những kẻ ở tiền tuyến lại có những sáng kiến tốt đẹp nhất...".
n.t., diễn từ L'importance de la presse cathol., 17-2-1950: AAS 42 (1950), trg
256.
8 Xem 1Th 5,19 và
1Gio 4,1.
48* Số 37 đưa ra nguyên tắc tốt đẹp giữa giáo
dân và hàng giáo phẩm. Giáo dân phải theo tinh thần Kitô giáo mà trọng kính
tuân phục giáo phẩm, và giáo phẩm cũng phải biết thẳng thắn tiếp nhận giáo dân,
biết lấy tinh thần kính trọng và bác ái mà lắng nghe họ, biết thừa nhận và đề
cao địa vị và trách nhiệm của họ trong Giáo Hội. Giáo Hội cũng phải tôn trọng sự
tự do chính đáng của họ trong nước trần gian.
9 Epist. ad
Diognetum, 6 :x.b. Funk I, trg 400. - Xem T. Gioan Kim Khẩu, in Mt bài giảng 46
(47), 2: PG 58, 478, về men trong bột.
49* Ðể kết luận, số 38 quả quyết mỗi giáo dân
tùy theo cảnh huống của mình phải là chứng nhân của Phục Sinh và là dấu hiệu của
Thiên Chúa hằng sống.
50* Trong lược đồ trình
lên Công Ðồng khi khai mạc kỳ họp thứ hai, cả hai chương V và VI như chúng ta
thấy hiện nay đều nằm chung trong một chương. Sự phân chia hai chương đó đặt ra
hai câu hỏi:
1)
Soạn một chương đặc biệt nói về tu sĩ phải chăng không thích hợp: (x. cuộc
tranh luận trong chương kế tiếp).
2)
Phải chăng tốt hơn là sắp đặt chương V này của lược đồ vào trong các chương I
và II? Bởi vì việc nên thánh gắn liền với đời sống và mầu nhiệm Giáo Hội nên
không thể bàn riêng được. Như vậy đáng lẽ Hiến Chế được kết cấu cân xứng và mạch
lạc hơn: sau những chương đề cập đến mầu nhiệm Giáo Hội và Dân Thiên Chúa (bao
gồm cả khía cạnh thánh thiện và cánh chung) là những chương nói về các bậc sống
khác nhau trong Giáo Hội: giáo phẩm, giáo dân cách tổng quát, tu sĩ và những
người có gia đình. Kết thúc là chương về Ðức Mẹ. Việc sắp xếp như vậy không thực
hiện được vì thiếu thời giờ.
Chương
V được kết cấu như sau: Công Ðồng xác định sự thánh thiện bản thể và luân lý của
Giáo Hội (số 39), rồi kêu gọi mọi phần tử trong Giáo Hội phải nên thánh và hướng
về sự nên thánh (số 40). Phải nên thánh thực sự trong bất cứ địa vị, điều kiện
hay nghề nghiệp nào (số 41) bởi vì mọi phần tử trong Giáo Hội đều có những
phương tiện tự nhiên và siêu nhiên giúp cho họ không những nên thánh mà còn có
được sự hoàn hảo trong bậc sống riêng của mình (số 42).
Chương VI
1 Sách lễ Roma, Vinh
danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Xem Lc 1,35; Mc 1,24; Lc 4,34; Gio 6,69 (ho
hagios tou Theou); CvTđ 3,14; 4,27 và 30; Dth 7,26; 1Gio 2,20; Kh 3,7.
Ðiều
quả quyết chủ yếu của số này là: Giáo Hội thánh thiện. Những ý tưởng khác trong
số này đều phụ thuộc vào điều quả quyết chủ yếu đó. Giáo Hội thánh thiện vì
tham dự vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô. Do đó, mới có lời kêu gọi nên
thánh trong trật tự luân lý, vì trong trật tự đó mà Giáo Hội phải thực hiện sự
thánh thiện bản thể Chúa Kitô ban cho. Sự thánh thiện này biểu lộ trong những
hoa trái ân sủng nơi mỗi người, dưới nhiều hình thức, và đặc biệt trong việc thực
hành các lời khuyên Phúc Âm với tính cách riêng hoặc chung. Tóm lại, số này nhấn
mạnh đến khía cạnh bản thể và luân lý của sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho
Giáo Hội qua Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần; và chỉ mới trình bày nền tảng
theo lời Thánh Phaolô: "Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa".
2 Xem Origenê, Comm.
Rom. 7,7 : PG 14, 1122B Macariô Giả, De oratione, 11 : PG 34, 861 AB. T. Tôma,
Summa Theol. II-II, q. 184, a. 3.
3 Xem T. Augustinô,
Retract. II, 18 : PL 32, 637t. Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943 : AAS
35 (1943), trg 225.
4 Xem Piô XI, Tđ.
Rerum omnium, 26-1-1923 : AAS 15 (1923), trg 50 và 59-60. n.t. Tđ. Casti
connubii, 31-12-1930 : AAS 22 (1930), trg 548. Piô XII, Tông hiến Provida
Mater, 2-2-1947: AAS 39 (1947), trg 117. Diễn từ Annus sacer, 8-12-1950: AAS 43
(1951), trg 27-28. Diễn từ Nel darvi, 1-7-1956 : AAS 48 (1956), trg 574t.
Số
này xét đến sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu nằm trong văn mạch về sự thánh thiện
của Giáo Hội. Công Ðồng đưa ra những yếu tố gắn liền với lời kêu gọi mỗi người
nên thánh. Ðoạn nhất bày tỏ sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu, và vì Kitô hữu được
công chính hóa nhờ đức tin và phép Thánh Tẩy, tự bản thể và căn nguyên họ trở
nên thánh thiện trong chân lý, nên họ có nhiệm vụ phải sống xứng hợp với điều ấy.
Nền tảng thánh thiện vẫn tồn tại sau khi phạm tội. Ðề cập đến tội lỗi là để
tránh một hình thức duy tâm nguy hại và để có thể lưu ý đến thực tại. Ðoạn hai
kêu gọi mọi người nên thánh hoàn toàn. Ðây là phần kết luận cho cả số, rút ra từ
nền tảng đã đặt định: Kitô hữu không chỉ nên thánh mà thôi, nhưng còn phải thực
hiện sự thánh thiện trong đời sống cụ thể. Kitô hữu được kêu gọi làm việc đó.
5 Xem Tôma, Summa
Theol. II-II, q. 184, a. 5 và 6; De Perfect. Vitae spir., ch. 18. Originê, In
Is. bài giảng 6,1 : PG 13, 239.
6 Xem T. Inhaxiô Tử đạo,
Magn. 13,1 : x.b. Funk I, trg 241.
7 Xem T. Piô X, huấn
từ Haerent animo, 4-8-1908: AAS 41 (1908), trg 560t. Giáo luật kh. 124. Piô XI,
Tđ. Ad Catholici sacerdoti I, 20-12-1935 : AAS 28 (1936), trg 22.
8 Xem Pontificale
Romanum, lễ truyền chức linh mục, lời huấn từ đầu.
9 Xem T. Inhaxiô Tử đạo,
Trall. 2,3 : x.b. Funk I, trg 244.
10 Xem Piô XII, diễn từ
Sous la maternelle protection, 9-12-1957 : AAS 50 (1958), trg 26.
11 Xem Piô XI, Tđ.
Casti connubi I, 31-12-1930: AAS 22 (1930), trg 548. T. Gioan Kim Khẩu, In
Ephes. Bài giảng 20,2 : PG 62,136 tt.
Ðộng
lực trong đời sống Kitô giáo hướng dẫn mọi tín hữu đến đức ái hoàn hảo. Việc đó
được thực hành theo nhiều mức độ, cũng như tùy theo các hồng ân và trạng huống
khác nhau, hoặc trên bình diện đời sống Kitô giáo nói chung, hoặc mỗi bậc sống
nói riêng. Theo văn mạch chúng ta thấy rằng nếu sự thánh thiện chỉ là một xét
theo bản thể của nó, nó lại có nhiều cấp độ, vì sự tự do cộng tác vào ân sủng
khác nhau, vì các bậc sống khác nhau và cuối cùng vì ân sủng được trao ban theo
nhiều cách thức và mỗi người có hồng ân riêng biệt của mình.
Phần
còn lại là một lời khuyên nhủ đặc biệt, có tính cách mục vụ, nhằm gởi đến những
hạng người và những bậc sống khác nhau trong Giáo Hội (giám mục, linh mục, giáo
sĩ, giáo dân, vợ chồng, công nhân, người chuyên nghiệp nói chung), để họ sống
và có thể thăng tiến trên đường thánh thiện, phù hợp với địa vị và điều kiện
riêng của họ. Như vậy là đi từ lời kêu gọi nên thánh tới nhiệm vụ phải tự thánh
hóa trong địa vị và điều kiện riêng của mình. Và đó là nhiệm vụ của mỗi người.
12 Xem T. Augustinô,
Enchir. 121, 32 : PL 40, 288. T. Tôma, Summa Theol. II-II, q. 184, a.1. Piô
XII, huấn từ Menti nostrae, 23-9-1950 : AAS 42 (1950), trg 660.
13 Về các lời khuyên
nói chung, xem Origenê, Comm. Rom. X,14: PG 14, 1275B. T. Augustinô, De S.
Virginitate, 15,15 : PL 40,403. T. Tôma, Summa Theol. I-II, q. 100, a.2, C đoạn
cuối; II-II, q. 44, a. 4,3.
14 Về sự cao vời của đức
khiết tịnh thánh hiến, xem Tertullianô, Exhort. Cast. 10 : PL 2,925C. T.
Cyprianô, Hab. Virg. 3 và 22 : PL 4,443B và 461At. T. Athanasiô (?), De Virg.
PG 28,252tt. T. Gioan Kim Khẩu, De Virg. : PG 48,533tt.
15 Về sự khó nghèo,
xem Mt 5,3 và 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22; gương vâng lời của Chúa Kitô trong Gio
4,34 và 6,38; Ph 2,8-10; Dth 10,5-7. Các Giáo Phụ và các Ðấng sáng lập dòng thường
đề cập rất nhiều đến các nhân đức này.
16 Về sự thực hành
công hiệu những lời khuyên mà không bắt buộc tất cả mọi người, xem T. Gioan Kim
Khẩu, In Mt. bài giảng 7,7 : PG 57,81t. T. Ambrosiô, De Viduis, 4, 23 : PL 16,
241t.
Số
này trình bày động lực làm cho Kitô hữu thăng tiến trên đường thánh thiện: đó
là đức ái. Cơ cấu của số này như sau: đức ái là linh hồn của mọi hành động
thánh thiện (42a), biểu lộ bằng hành động cao cả là tử đạo (42b), trong các lời
khuyên Phúc Âm, đặc biệt trong sự khiết tịnh vẹn toàn (42c), trong sự khiêm hạ,
tuân phục và khó nghèo (42d). Chính nhờ đức ái mà chúng ta tránh được nguy hiểm
(42e). Ðức ái là con đường chính yếu và cần thiết để nên thánh. Công Ðồng nhấn
mạnh tới tính cách thiên phú của nhân đức này như là hồng ân Chúa ban và tới
khía cạnh giới luật đòi người ta phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân nhờ thực
hành các nhân đức khác. Công Ðồng còn đề cập đến các bí tích, lời kinh nguyện,
sự quên mình, sự khổ hạnh và việc phục vụ huynh đệ. Như thế đức ái là mầm mống
các nhân đức khác. Từ những điều đã trình bày chúng ta có thể kết luận là đức
ái đòi phải thi hành mọi giới luật Thiên Chúa (x. 1Gio 5,3; Gio 14,21; 2Gio 6).
Bậc sống riêng nào của mỗi người cũng có thể thực hành những lời khuyên Phúc
Âm. Như vậy là tránh được thiên kiến cho rằng các tu sĩ chiếm độc quyền việc
nên thánh. Số 42 làm sáng tỏ động lực này của đức ái qua sự thực hành trong mỗi
tình trạng cụ thể.
55* Việc chuẩn bị chủ đề
để soạn thảo cho chương này khá sôi nổi. Trong lược đồ đầu tiên, tất cả chương
VI đề cập đến tu sĩ. Khi lược đồ được làm lại và đưa lên để Công Ðồng nghị
trình trong kỳ họp thứ hai, chương nói về tu sĩ lại được xen vào chương V bàn
chung về lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội. Làm thế cũng gây nên nhiều bất
tiện. Như vậy, chúng ta thấy có hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất đòi soạn
thảo một chương đặc biệt về tu sĩ, khuynh hướng thứ hai cương quyết cứ để xen
chung vào chủ đề về lời kêu gọi nên thánh. Sau nhiều cuộc bàn cãi, việc phân
tách hai chương được chấp thuận, như chúng ta thấy trong bản văn chung quyết. Vị
trí của chương này trong toàn thể Hiến Chế là do những quan sát thực tiễn. Ðặt
nó liền sau chương nói về lời kêu gọi nên thánh là để bày tỏ giá trị và tầm
quan trọng của đời tận hiến cho Giáo Hội để thánh hoá và minh chứng. Kết cấu của
chương này đơn giản: sau khi mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức
đời sống tu trì (số 43), Công Ðồng phân tích bản tính đời sống tu trì (số 44),
và sau đó xét đến vai trò của quyền bính Giáo Hội đối với tu sĩ (số 45) và nhiệm
vụ của đời sống tu trì trong việc phát triển nhân phẩm của chính tu sĩ, hoặc
trong đời sống Giáo Hội (số 46); sau cùng là đôi lời khuyên nhủ vắn tắt kết
thúc cho chương này (số 47).
Chương VII
1 Xem Rosweydô, Vitae
Patrum, Antwerpiae, 1628. Apophteymata Patrum : PG 65. Palladiô, Hist.
Lausiaca: PG 34, 995tt; x. b. C. Butler, Cambridge 1898 (1904). Piô XI, Tông hiến
Umbratilem, 8-7-1924 : AAS 16 (1924), trg 386-387. Piô XII, diễn từ Nous sommes
heureux, 11-4-1958: AAS 50 (1958), trg 283.
2 Xem Phaolô VI, diễn
từ Magno gaudio, 23-5-1964 : AAS 56 (1964), trg 566.
3 Xem Giáo luật, kh.
487 và 488, 4. Piô XII, diễn từ Annus sacer., 8-12-1950: AAS 43 (1951), trg
27t. Piô XII, Tông hiến Provida Mater, 2-2-1947: AAS 39 (1947), trg 120tt.
Công
Ðồng mô tả nguồn gốc và sự tiến triển của các hình thức tu trì, một trật cũng
bày tỏ thánh ý Chúa và vai trò của quyền bính Giáo Hội. Ðời sống tu trì là một
hồng ân Chúa Cha ban cho Giáo Hội, Giáo Hội phải trung thành gìn giữ và hướng dẫn.
Do lời giảng dạy và gương mẫu của Người, Chúa Kitô là nền tảng các lời khuyên
Phúc Âm. Công Ðồng còn minh định thêm rằng đời sống tu trì không nằm trong hệ
thống cơ cấu phẩm trật (giáo sĩ - giáo dân), nhưng trong hệ thống cơ cấu đoàn sủng.
Dầu các lời khuyên là do Chúa ban, và đời sống tu trì thực hành những lời
khuyên đó là thuộc phạm vi đoàn sủng, Giáo Hội cũng phải thiết lập một hình thức
định chế để thực hành đời sống ấy.
4 Xem Phaolô VI,
n.v.t., trg 567.
5 Xem T. Tôma, Summa
Theol., II-II, q. 184,a. 3 và q. 188, a.2. T. Bonaventura, Opusc. XI, Apologia
Pauperum, ch. 3,3: x.b. Opera, Quaraechi, bộ 8, 1898, trg 245a.
Trước
hết Công Ðồng thừa nhận trong đời sống đó có một sự thánh hiến cho Thiên Chúa để
hoàn bị sự thánh hiến của bí tích Thánh Tẩy. Do lời khấn hay việc dấn thân
tương tự mà có việc dâng hiến, nhờ đó đời sống của tu sĩ và cả thế giới được thần
hóa nhiều hơn (x. số 31). Sự thánh hiến này hoàn tất trong tình yêu trọn vẹn nhất:
tình yêu ưu tiên dành cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ðời sống tu trì chính yếu
cũng là phục vụ Giáo Hội, để làm cho việc tông đồ được bành trướng. Nhưng vì là
một sự thánh hiến nội tâm, nên việc phục vụ trước hết là cộng tác vào việc mở
mang nước Chúa bằng thái độ nhiệt thành, bằng kinh nguyện và cũng có thể bằng
hoạt động. Bởi thế, việc phục vụ này không chỉ là một hình thức tông đồ bên
ngoài. Giá trị dấu hiệu của việc tuyên xưng các lời khuyên Phúc Âm phát xuất từ
sự thánh hiến nội tâm này: dấu hiệu cánh chung của đời sau và của hạnh phúc
trên Trời, giá trị của sự cao trọng Nước Chúa. Ðể kết luận, Công Ðồng tuyên bố
đời sống tu trì không thể tách lìa khỏi đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội.
Như vậy chúng ta hiểu rằng, một đàng Giáo Hội cần được sự đóng góp của đời sống
tu trì nên phải cổ võ đến mức tối đa cho đời sống ấy, đàng khác đời sống ấy nói
lên sức mạnh của Giáo Hội. Cứ theo những điểm vừa nói thì đời sống tu trì là một
thực tại sống động trong Giáo Hội.
6 Xem CÐ Vat. I, lược
đồ De Ecclesia Christi, ch. XV, và chú giải 48: Mansi 51, 549t và 619t. Leô
XIII, thu Au milieu des consolations, 23-12-1900: ASS 33 (1900-01), trg 361.
Piô XII, Tông hiến Provida Mater, n.v.t., trg 114t.
7 Xem Leô XIII, Hiến
chế Romanos Pontifices, 8-5-1881: ASS 13 (1880-81), trg 483. Piô XII, diễn từ
Annus Sacer, 8-12-1950 : AAS 43 (1951), trg 28t.
8 Xem Piô XII,
n.v.t., trg 28. Piô XII, Tông hiến Sedes sapientiae, 31-5-1956: AAS 48 (1956),
trg 355. Phaolô VI, diễn từ Magno gaudio, 3-5-1964: AAS 56 (1964), trg 570-571.
Vai
trò quyền bính Giáo Hội nằm trong những điều quy định tổng quát: lập luật để
làm qui tắc hướng dẫn việc thực hành các lời khuyên, chuẩn y các điều lệ, lưu ý
đến sự trung thành và tăng triển các hội dòng. Sau đó Công Ðồng đề cập đến những
người nắm giữ quyền bính này: Ðức Giáo Hoàng là Vị mà các hội dòng miễn trừ phải
tùy thuộc; các Giáo Chủ, các Giám Mục là những người mà mọi tu sĩ phải kính trọng
và tuân phục. Sự quả quyết Giáo Hội góp phần trong phương diện phụng vụ và
thiêng liêng vào việc tuyên khấn cũng nói lên rằng những mối tương quan với quyền
bính không chỉ có tính cách pháp lý. Theo Hiến Chế, sự đóng góp vào phụng vụ mặc
ba hình thức: Giáo Hội dùng quyền bính chấp nhận các lời khấn, dùng lời kinh
công cộng xin Chúa ban ơn, kết hợp sự tận hiến của người tuyên thệ vào hy lễ tạ
ơn.
9 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 241t.
10 Xem Piô XII, diễn từ
Annus Sacer, n.v.t., trg 30. Diễn từ Sous la maternelle protection, 9-12-1957:
AAS 50 (1958), trg 39t.
Sau
khi khuyên nhủ tu sĩ biết minh chứng Chúa Kitô trong các hoạt động, Công Ðồng
nhắc nhở cho họ biết đời sống tu trì làm phát triển nhân cách con người vì là một
sự tự hiến, phát xuất từ hành động tự do của ý chí đi theo chiều hướng của ơn gọi
cá nhân; đời sống ấy còn định hướng nhân phẩm theo như điều mà chương trình của
Chúa muốn dung hợp, và như vậy làm cho nhân phẩm được nẩy nở hoàn toàn. Công Ðồng
đề cập ba khía cạnh của việc nẩy nở đó: tự do thiêng liêng trong tâm hồn trong
sạch hoàn toàn, bác ái hăng say nhờ đó mà nhân phẩm con người được phát triển
đích thực, dung hợp với lối sống mà chính Chúa Kitô đã theo, lối sống mà Mẹ
Maria là gương mẫu hoàn hảo. Công Ðồng cũng nhắc lại rằng đờisống tu trì còn cộng
tác một cách thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần gian. Sự hiện diện tinh
thần của tu sĩ còn đích thực hơn cả sự hiện diện hữu hình bên ngoài. Cố nhiên
Công Ðồng không nói tu sĩ hiện diện nơi người khác nhưng hiện diện trong trái
tim Chúa Kitô. Do sự kiện cộng tác thiêng liêng vào công cuộc kiến tạo trần
gian, tu sĩ trở nên hữu ích cho xã hội và cộng tác vào việc tái tạo một thế giới
xây dựng trên Chúa Kitô. Sau cùng Công Ðồng tuyên bố công nhận và khen ngợi lối
sống của tu sĩ.
Trong
câu kết luận vắn tắt, Công Ðồng khuyên nhủ tu sĩ kiên trì và thăng tiến trong
ơn gọi để Giáo Hội được thánh thiện và để làm vinh danh Thiên Chúa.
61* Chương này được
khai sinh theo ước muốn của Ðức Gioan XXIII.
Ðược
Ủy ban Thần học soạn thảo lại, chương này được mọi người công nhận là một phần
của hiến chế mới (lược đồ đệ trình bấy giờ chỉ có 4 chương). Nội dung của
chương được tổng hợp trong tựa đề. Công Ðồng nhấn mạnh tới hành động tôn vinh
Thiên Chúa của tất cả Thân Thể Chúa Kitô là Giáo Hội dưới đất cũng như trên trời.
Cơ cấu của chương như sau: số 48 nói lên hai giá trị của Giáo Hội trong đó những
thành phần dưới thế cùng tồn tại với những thành phần cố định; các số 49 và 50
trình bày những mối dây liên kết Kitô hữu còn ở trần gian với những người đã
lên trời hoặc ở trong luyện ngục: các Thánh trên trời cầu bầu cho chúng ta là
những kẻ lữ hành (số 49), mối tương quan giữa các Ngài với chúng ta (số 50). Từ
giáo lý này mà số 51 rút ra những hậu kết có tính cách mục vụ.
Trong
cuộc sống hiện tại, ơn gọi của chúng ta là: được Chúa Kitô thánh hóa, chúng ta
cùng với Người tiến về sự thánh thiện viên mãn trong đời sống vĩnh cửu, khi
chúng ta được chiêm ngưỡng chính Thiên Chúa. Cuộc lữ hành đòi chúng ta phải ý
thức về mối liên hệ giữa đời sống hiện tại của chúng ta với đời sống vĩnh cửu,
để với lòng tin vững chắc vào Chúa Kitô Cứu Thế và hy vọng một vinh quang mai hậu,
chúng ta chịu đựng những nghịch cảnh đời này, và chống lại ma quỉ. Ðời sống
Kitô giáo có sự liên tục giữa đời sống dưới thế và đời sống vĩnh cửu trên trời.
Có ý thức sống động được chân lý này, chúng ta mới nghĩ đến những người đã về
trời. Và điều đó làm chúng ta hiểu sâu sắc hơn về chính mầu nhiệm Giáo Hội: là
thực hiện sự hiệp thông giữa mọi người trong Chúa Kitô, là sự hiện diện sống động
của các thực tại trên trời giữa dòng đời trần gian. Như thế, khi tín hữu nhớ lại
lời Chúa và các Tông Ðồ đã nói, có thể nhận ra sự liên lạc mật thiết giữa các
chân lý này và tầm quan trọng nền tảng của chúng đối với đời sống Kitô giáo.
Ðây
là nền tảng giáo lý của cả chương, nghĩa là Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên
trời tạo thành một Dân Chúa, một Thân Thể Chúa Kitô. Công Ðồng giải thích sự hiệp
nhất này vì dựa vào căn bản là những mối dây liên lạc sống động giữa chúng ta,
những người lữ hành trên dương thế, và những người đã đạt tới quê trời. Trong số
những hoạt động và những mối liên quan ấy, điều đáng kể là việc các Thánh cầu bầu
cho cả Giáo Hội.
Chương VII
1 CÐ Firenze,
Decretum pro Graecis: Dz 693 (1305).
2 Ngoài những tài liệu
xưa hơn có từ thời Ðức Alexandrô IV ngăn cấm mọi hình thức chiêu hồn
(27-9-1258), xem Tđ. của Bộ thánh vụ De magnetismi abusu, 4-8-1856: ASS (1865)
trg 177-178; Dz 1653-1654 (2823-2825); câu trả lời của Bộ thánh vụ, 24-4-1917:
AAS 9 (1917), trg 268, Dz 2182 (3642).
3 Xem bài đúc kết học
thuyết này của T. Phaolô, trong Tđ. Piô XII, Mystici Corporis: AAS 35 (1943),
trg 200 và nhiều nơi khác.
4 Xem T. Augustinô,
Enarr. in Ps. 85, 24: PL 37, 1099. T. Hieronimô, Liber contra Vigilantium, 6:
PL 23, 344. T. Tôma, In Ivm Sent., d. 45, q. 3, a. 2. T. Bonaventura, In Ivm
Sent., d. 45, a. 3, q. 2; v.v...
5 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis : AAS 35 (1943), trg 245.
Nền
tảng tín lý được trình bày rõ ràng và chính xác để tránh những khuynh hướng cực
đoan và để giúp cho nhu cầu hiệp nhất được dễ dàng hơn. Công Ðồng dạy rằng, cho
tới khi Chúa lại đến trong vinh quang, một số người đã ở trên Nước Trời, một số
khác ở trong luyện ngục, một số khác nữa đang trên đường tiến về đời sau, nhưng
tất cả đều kết hiệp với Chúa Kitô làm nên một Giáo Hội duy nhất. Công Ðồng cũng
dạy rằng, các Thánh trên trời lấy tình thương phù trợ đặc biệt cho những người
anh em khác, và củng cố cũng như làm làm đẹp Giáo Hội trần gian.
6 Xem rất nhiều bi ký
trong các hầm mộ cổ ở Roma.
7 Xem Gelasiô I, giáo
lệnh De libris recipiendis, 3 : PL 59, 160; Dz 165 (353).
8 Xem Methodiô,
Symposion VII, 3 : GCS (Bonwetsch), trg 74.
9 Xem Benedictô XV,
Decretum approbationis virtutum in Causa beatificationis et canonizationis
Servi Dei Joannis Nepomuceni Neumann: AAS 14 (1922), trg 23. Nhiều diễn văn của
Ðức Piô XI về các thánh: Inviti all'eroismo, trong Discorsi e Radiomessaggi bộ
I-III, 1941-1942, và nhiều nơi khác. Ðức Piô XII, Discorsi e Radiomessaggi, bộ
1949, 37-43.
10 Xem Piô XII, Tđ.
Mediator Dei : AAS 39 (1947), trg 581.
11 Xem Dth 13,7; Hđ
44-50; Dth 11,3-40.
Xem
thêm Piô XII, Tđ. Mediator Dei: AAS 39 (1947), trg 582-583.
12 Xem CÐ Vat. I, Hiến
chế về đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: Dz 1794 (3013).
13 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis : AAS 35 (1943) trg 216.
14 Về sự biết ơn đối với
chính các thánh, xem E. Diehl, Inscriptiones latinae veteres, I, Berlin, 1925,
các số 2008, 2382 và nhiều nơi khác.
15 CÐ Trentô, sắc lệnh
De invocatione... sanctorum: Dz 984 (1821).
16 Sách nguyện Roma,
Tiền xướng trong lễ các Thánh.
17 Xem ví dụ: 2Th
1,10.
18 CÐ Vaticanô II, Hiến
chế Phụng vụ Thánh, Sacrosanctum Concilium, ch. 5, số 104 : AAS 56 (1964), trg
125-126.
19 Xem Sách lễ Roma, Lễ
qui.
Số
này trình bày cách thức mà Giáo Hội lữ hành phải có, để trong thực hành, tạo được
sự hiệp thông đã nói trong đoạn trước. Công Ðồng đưa ra những động lực chính yếu
giúp xây dựng và phát huy sự hiệp thông của chúng ta với Giáo Hội trên trời. Những
động lực đó như sau: những người đã về trời nêu gương cho chúng ta một đời sống
đạo chính thực; sự liên lạc với họ sẽ đưa chúng ta tiến tới việc kết hợp khắng
khít hơn với Chúa Kitô; sự hiệp thông với họ làm cho việc phụng tự qui về Chúa
Kitô nơi Giáo Hội trần gian được sung mãn. Ở nhiều nơi, Hiến Chế ám chỉ tới lịch
sử Giáo Hội, để làm sáng tỏ hơn những nền tảng thần học của giáo lý đã trình
bày và cũng để cho sự trình bày này được sống động hơn, tương xứng hơn với nhu
cầu mục vụ.
Ðoạn
nhất nói lên những cách thức hiệp thông tổng quát với các người anh em không
thuộc về Giáo Hội trần gian: kính nhớ và vọng độ cách chung, tôn kính và nài
xin cầu bầu. Ðoạn hai nhấn mạnh tới gương mẫu các Thánh nêu ra cho đời sống
Kitô giáo chúng ta, hoặc dưới khía cạnh sư phạm hoặc dưới khía cạnh minh giáo.
Ðoạn ba chúng ta thấy việc tôn kính các Thánh chính thực sẽ thúc giục chúng ta
thực thi bác ái huynh đệ và liên kết chúng ta với Chúa Kitô bền chặt hơn. Tình
bác ái huynh đệ nơi chúng ta là những khách lữ hành không bị suy giảm, trái lại
còn làm gia tăng đặc tính qui về Chúa Kitô của Kitô giáo. Cũng vì lý do đó, sự
liên lạc và hiệp thông với các Thánh trên trời đã không làm cản trở nhưng còn
giúp đỡ cách lạ lùng cho tình yêu và sự kính thờ Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðoạn bốn
có xác quyết căn bản như sau: việc tế tự phụng vụ của Giáo Hội thực hiện tất cả
những gì đã nói về sự liên hệ với các Thánh trên trời.
20 Xem CÐ Nicea II,
văn kiên VII : Dz 302 (600).
21 Xem CÐ Firenze,
Decretum pro graecis : Dz 693 (1304).
22 Xem CÐ Trentô, sắc
lệnh De invocatione, veneratione et reliquiis Sanctorum et sacris imaginibus:
Dz 984-988 (1821-1824), sắc lệnh De Purgatorio: Dz 983 (1820); sắc lệnh De
justificatione, khoản 30: Dz 840 (1580).
23 Sách lễ Roma, kinh
Tiền tụng, dùng trong các giáo phận Pháp.
24 Xem T. Phêrô
Canisiô, Catechismus Maior seu Summa Doctrinae christianae, ch. III, x.b. F.
Streicher, phần I, trg 15-16, số 44 và trg 100-101, số 49.
25 Xem CÐ Vat II, Hiến
chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, ch. I, số 8: AAS 56 (1964), trg
401.
Một
vài hậu kết có tính cách mục vụ theo sau những nguyên tắc đã đề ra. Hậu kết đó
bao gồm một số ý hướng căn bản để việc tôn kính các Thánh được thực hiện trong
tinh thần đúng đắn và để có thể ngăn ngừa những hình thức thái quá hay bất cập ở
một vài nơi. Một đàng Công Ðồng chủ trương rõ ràng giá trị việc tôn kính các
Thánh không cốt tại gia tăng các hành động bên ngoài, nhưng do cường độ tình
yêu của chúng ta; đàng khác Công Ðồng quả quyết việc tôn kính ấy không đi ngược
với tình yêu Thiên Chúa, với việc tôn thờ dành cho mình Ngài. Số này chứa đựng
nhiều điều có thể cổ võ cho việc hiệp thông với các anh em ly khai, đặc biệt với
anh em Ðông Phương, vì giáo lý thuộc đức tin của chúng ta đây đối với họ hết sức
quan trọng, làm nên một di sản chung về đức tin và về sự kính nhớ.
Phần
kết luận cho toàn chương (51, đoạn hai) quả quyết rằng hiện đại hóa sự hiệp
thông của tất cả những người thuộc về Chúa Kitô là đã bắt đầu cuộc sống vinh
quang, và như vậy là ngay ở chốn lưu đày này đã thực hiện được cùng đích của đời
ta vì đã được tham dự và thưởng thức phụng vụ vinh hiển trên trời.
67* Ðây là một trong những
chương được tranh luận nhiều nhất. Việc khai sinh ra nó cũng gây nhiều sôi nổi.
Trong số những lược đồ được đệ trình, có một lược đồ về Ðức Maria. Vì những lý
do có tính cách hoặc thần học hoặc mục vụ hoặc hiệp nhất, một vài Nghị Phụ muốn
cho lược đồ về Ðức Maria xen vào Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội. Ngày 29-10-1963,
các Nghị Phụ đứng trước một câu hỏi như sau: "Các Nghị Phụ Công Ðồng có muốn
lược đồ về Ðức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội đổi thành chương cuối cùng của lược đồ về
Giáo Hội chăng?" Trước khi bỏ phiếu, có hai bản phúc trình chính thức về vấn
đề này: Hồng Y Konig, người muốn cho xen vào hiến chế, và Hồng Y Santos muốn
làm một lược đồ riêng. Cả hai dùng những luận chứng dồi dào và vững chắc để
trình bày trước các Nghị Phụ và sự thích hợp của quan điểm mình. Kết quả cuộc đầu
phiếu thật sát nút: với 2,193 Nghị Phụ có mặt thì 1,114 vị bỏ phiếu thuận,
1,074 phiếu chống. Phiếu thuận chỉ hơn có 40 phiếu và Công Ðồng chấp nhận việc
xen lược đồ vào trong Hiến Chế.
Một
vấn đề thứ hai được đặt ra: nếu xen thì xen vào chỗ nào? Mẹ Thiên Chúa liên kết
khắng khít với mầu nhiệm Giáo Hội, nhưng muốn giải thích sự liên kết này, cần
quan niệm vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Ðối với
khía cạnh này, giáo lý về Ðức Maria vượt quá giáo lý về Giáo Hội. Do đó chỉ có
thể đặt vào phần cuối Hiến Chế. Ðấy là lý do tại sao có chương VIII và vị trí của
nó trong Hiến Chế.
Bố
cục của chương này như sau: trong phần nhập đề (các số 52-54), Công Ðồng xác định
địa vị của Ðức Maria trong Giáo Hội và những nguyên tắc giáo lý làm kim chỉ nam
cho việc trình bày về Ðức Maria. Ðồng thời Công Ðồng cũng cho biết chủ đích của
mình. Phần nhất (các số 55-59) giải thích địa vị của Mẹ Thiên Chúa trong mầu
nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Phần hai (các số 60-65) trình bày địa vị đó trong viễn
tượng Giáo Hội, nói lên những liên lạc của Ðức Maria với Giáo Hội. Phần ba (các
số 66-67) đề cập những bổn phận Kitô hữu đối với Ðức Maria. Phần kết luận vắn tắt
(các số 68-69) trình bày Mẹ Thiên Chúa như dấu hiệu hy vọng và sự liên quan của
Ngài với việc hiệp nhất các Kitô hữu.
Các
số này thống nhất với nhau (trong lần soạn thảo đầu chúng ở trong cùng một số)
có mục đích trình bày đối tượng của chương VIII. Ý tưởng chính rất đơn giản: mạc
khải đã minh nhiên làm nổi bật địa vị của Mẹ Thiên Chúa, trong ý định cứu rỗi từ
đời đời của Chúa, trong sự thực hiện ý định ấy do Chúa Giêsu Kitô, bởi vì có sự
liên tục (chương VII) giữa công việc dưới đất và công việc trên trời của Chúa
Kitô và ngày nay Ðức Mẹ cũng vẫn còn giữ nguyên địa vị này (số 52). Maria là phần
tử đặc biệt và là khuôn mẫu Giáo Hội (số 53). Chủ đích của Công Ðồng là: trình
bày vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội và những bổn
phận của Kitô hữu đối với Mẹ (số 54).
Chương VIII
1 Kinh tin kính của
CÐ Constantinopla: Mansi 3, 566. Xem CÐ Ephesô, n.v.t., 4, 1130 (và n.v.t., 2,
665 và 4, 1071). Xem CÐ Calcedonia, n.v.t., 7, 111-116. CÐ Constantinopla II
n.v.t., 9, 375-396. Sách lễ Roma, kinh tin kính.
2 Sách lễ Roma, lễ
qui.
Việc
cứu thế được thực hiện nhờ Thiên Chúa đã gửi Con Ngài đến, sinh bởi người nữ.
Ðó là nền tảng của cả khoa Thánh Mẫu học. Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria liên kết mật
thiết với việc Nhập Thể Cứu Chuộc đó.
3 T. Augustinô, De S.
Virginitate, 6 : PL 40, 399.
Số
này đặt Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế trong tương quan với Giáo Hội. Ðầu tiên là quả quyết
Ðức Maria đã tự ý chấp nhận lời thiên thần báo tin sẽ sinh Ðấng Cứu Thế. Câu
chuyện báo tin được đặt nổi bật. Sau đó Công Ðồng nghiên cứu sâu xa những mối
liên hệ giữa Maria và Ba Ngôi Thiên Chúa trong viễn tượng Giáo Hội theo một đề
tài quen thuộc với Hiến Chế như đề tài Giáo Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi. Vì trách
vụ được Chúa trao phó nên Mẹ được cứu chuộc kỳ diệu hơn, do công nghiệp Con Mẹ,
Ðấng mà Mẹ đã kết hiệp mật thiết và bền chặt. Trong chiều hướng ấy, Công Ðồng
không ngần ngại liên tiếp trình bày Ðức Trinh Nữ như là Mẹ của Con Thiên Chúa,
là ái nữ của Chúa Cha, là cung thánh của Chúa Thánh Thần. Cả ba danh hiệu hoàn
toàn theo truyền thống. Nhưng tâm điểm của số này ở chỗ Công Ðồng quả quyết rằng
Maria vừa có các danh hiệu đó, nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Mẹ cũng
liên kết với tất cả mọi người, và Mẹ đã cộng tác vào công việc cứu thế. Do đó,
Mẹ Chúa Kitô vẫn là phần tử Giáo Hội, dù là phần tử tuyệt hảo và đặc biệt, một
trật cũng là khuôn mẫu của Giáo Hội. Bởi vậy Giáo Hội tôn kính Mẹ như Mẹ thật với
tình con thảo.
4 Xem Phaolô VI, Diễn
văn trong Công Ðồng, ngày 4-12-1963 : AAS 56 (1964), trg 37.
Công
Ðồng giải thích vắn tắt về vai trò Ðức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và về các
bổn phận của tín hữu đối với Mẹ. Công Ðồng tự giới hạn trong viễn tượng này chứ
không nhằm trình bày đầy đủ giáo lý về Ðức Maria, cũng không nhằm giải quyết
các vấn đề mà các nhà thần học tranh luận.
Bố
cục phần này rất rõ ràng, vì dựa theo các dữ kiện lịch sử mạc khải về Mẹ Thiên
Chúa trong Thánh Kinh, bắt đầu từ Cựu Ước tới thời kỳ Giáo Hội, qua sự kiện
truyền tin, tới cuộc đời thơ ấu và công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc
trình chính thức đã nói, đây là phần chính yếu nhất trong Chương VIII.
Thứ
tự của số này theo sát lịch sử cứu rỗi như thấy trong Cựu Ước, để chúng ta thấy
rằng người phụ nữ làm Mẹ Chúa Kitô trong Phúc Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng
ta nhận biết qua thần học và qua việc tôn kính nơi các dân Kitô giáo. Như thế
là Công Ðồng cho biết sự tiến triển của mạc khải về Ðức Maria và không ngần ngại
chấp thuận phương pháp lịch sử cứu rỗi, một phương pháp mà một số người chuyên
về Thánh Mẫu học không mấy tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên
Công Ðồng chỉ nhằm trình bày một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ, dựa
trên toàn thể chứng từ được linh ứng của Mạc Khải trọn vẹn và trên chứng từ của
đời sống Giáo Hội.
5 Xem T. Germanô,
Const. Hom. in Annunt. Deiparae: PG 98, 328 A; In Dorm. 2: 357 Anatasiô thành
Antiokia, Serm. 2 de Annunt. 2: PG 89, 1377 AB: Serm. 3, 2 : 1388 C. T. Anrê
Cret., Can. in B.V. Nat. 4 : PG 97, 1321 B; in B.V. Nat. 1: 812 A; Hom. in
dorm. 1: 1068 C. T. Sophroniô, Or. 2 in Annunt. 18: PG 87 (3), 3237 BD.
6 T. Ireneô, Adv.
Haer. III, 22, 4: PG 7, 959 A; Harvey 2, 123.
7 T. Ireneô, n.v.t.,
Harvey, 2, 124.
8 T. Epiphaniô, Haer.
78, 18 : PG 42, 728 CD-729 AB.
9 T. Hieronimô,
Epist. 22, 21: PL 22, 408. Xem T. Augustinô, Serm. 51, 2, 3 : PL 38, 335; Serm.
232, 2: 1108. T. Cyrillô Jerusalem. Catech., 12, 15: PG 33, 741, AB. T. Gioan
Kim Khẩu, In Ps. 44, 7: PG 55, 193. T. Gio Damascenô, Hom. 2 in dorm. BMV. 3:
PG 96, 728.
Công
Ðồng theo vết các Giáo Phụ, coi câu chuyện truyền tin rất quan trọng, vì nhìn
thấy ở đó thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội thuở đầu đã bày tỏ lòng
tin của họ vào thái độ chấp nhận này của Ðức Maria, vì là kết quả của đức tin
và tình yêu của Mẹ. "Chấp nhận" không những là tiếng nói then chốt
trong cả câu chuyện nhưng đồng thời còn là tiếng nói lược tóm tất cả viễn ảnh đời
sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong
ta, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế; cũng như Ðứa Maria, chúng
ta tích cực cộng tác mà không tự mãn, và qua việc chấp nhận ấy, ân sủng đem lại
sự sống: trong Chúa Kitô, Ðức Maria đã ban cho thế giới Nguồn Sống đổi mới mọi
sự.
10 Xem CÐ Lateranô,
năm 649, đ. th. 3: Mansi 10, 1151. T. Leô Cả, Epist. ad Flav.: PL 54. 759. CÐ
Calcedonia: Mansi 7, 462. T. Ambrosiô, De inst. Virg.: PL 16, 320.
Câu
đầu tiên của số này nêu lên ý tưởng chỉ dẫn: Ðức Maria liên kết với Chúa Con
trong công cuộc cứu thế từ lúc thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh cho tới mầu
nhiệm cuộc tử nạn của Chúa. Công Ðồng trình bày chân lý này rõ ràng hơn bao giờ
hết. Chủ đề trở lại ba lần: lần Ðức Maria đi thăm bà Elizabeth, lần sinh Chúa ở
Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ. Câu chuyện tìm thấy Chúa trong đền thờ
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự liên kết ấy.
11 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 247-248.
Một
cách vắn tắt, Công Ðồng đóng khung hoạt động của Ðức Maria trong cuộc đời công
khai của Chúa, vì theo thánh Gioan, lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công khai đều
có sự hiện diện của Ðức Maria. Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ được gọi là
"Bà". Ðó là lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân Thánh Giá. Hai
lời Chúa nói xem ra như hất hủi Ðức Maria. Việc can thiệp của Ðức Maria có nhiều
ý nghĩa, nhưng lại nằm trong văn mạch mới đầu có thể coi là kỳ lạ. Ý tưởng
chính là: Nước Thiên Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và hoàn toàn ở trên
sự tính toán của con người. Câu chính trong số này trình bày một ý tưởng ít
quen thuộc hơn: Ðức Maria cũng tiến tới trong cuộc hành trình Ðức Tin qua đau
khổ và u tối.
12 Xem Piô IX, sắc chỉ
Ineffabilis, 8-12-1854 : văn kiện của Ðức Piô IX, 1, I, trg 616; Dz 1641
(2803).
13 Xem Piô XII, Tông
hiến Munificentissimus, 1-11-1950: AAS 42 (1950); Dz 2333 (3903). Xem T. Gio
Damascenô, Enc. in dorm. Dei Genitricis, bài giảng 2 và 3: PG 96, 721-761. nhất
là cột 728B. T. Germanô Constantinopla, In S. Dei gen. Dorm. bài giảng 1: PG 98
(6); 340-348; bài giảng 3: cột 361. T. Modestô Jerusalem, In dorm. SS.
Deiparae: PG 86 (2) 3277-3312.
14 Xem Piô XII, Tđ. Ad
caeli Reginam, 11-10-1954: AAS 46 (1954), trg 633-636; Dz 3913tt. Xem T. Anrê
Gret., Hom. 3 in dorm. SS. Deiparae: PG 97, 1089-1109. T. Gioan Damascenô, De
fide orth., IV, 14: PG 94, 1153-1161.
Có
hai vấn đề nói ở đây: 1) Lời cầu nguyện của Ðức Maria trước lễ Hiện Xuống cùng
với các Tông Ðồ, các phụ nữ và các anh em Chúa. Ðức Maria ở giữa dân chúng chứ
không ở trong số những người điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh nguyện
chung. Mẹ thuộc thành phần Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn bị thi hành sứ mệnh của
mình, và Mẹ cầu nguyện với tước hiệu duy nhất là Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2)
Công Ðồng tái xác nhận hai tín điều đã được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những
lời của các câu định tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật thiết với
nhau. Ðức Maria được suy tôn làm Nữ Vương của vũ trụ, để trở nên giống với Con
Mẹ là Chúa các Chúa một cách hoàn toàn hợn, và được suy tôn là Ðấng chiến thắng
tội lỗi và sự chết.
Phần
này trực tiếp bàn về sự liên lạc giữa Ðức Maria và Giáo Hội. Trước hết, Công Ðồng
nhấn mạnh tới sự đồng công cứu chuộc của Ðức Maria do sự tự ý chấp thuận việc
Nhập Thể của Con Thiên Chúa, do việc dâng hy tế trên Thánh giá và do việc cầu bầu
liên lỉ trên trời. Trong văn mạch này, giữa những tước hiệu khác nhau Công Ðồng
đề cập đến tước hiệu Ðấng Trung Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa
nhìn thấy rõ tước hiệu này nên Công Ðồng giải thích cho biết tước hiệu này vẫn
không làm lu mờ sự tuyệt hảo Ðấng Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô (các số
60-62). Sau đó (trong các số 63-64) Công Ðồng giải thích lý do khiến Ðức Maria,
là Trinh Nữ và là Mẹ, lại là hình bóng của Giáo Hội. Giáo lý này có tầm quan trọng
đặc biệt, vì Công Ðồng rất lưu tâm đến những khía cạnh trổi vượt của mầu nhiệm
Giáo Hội. Sau cùng (số 65), Ðức Maria được coi như gương mẫu các nhân đức.
Số
này tóm lược các nguyên tắc giáo lý và chỉ dẫn cho biết giáo lý trình bày trong
những số kế tiếp phải được hiểu theo những nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động
của Ðức Maria đều do vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Ðấng đã muốn cho Ðức
Maria cộng tác vào công trình cứu chuộc. Sự trung gian của Ðức Maria biểu lộ rõ
rệt hơn và còn giúp cho sự trung gian của Chúa Kitô nữa. Chỉ vì ý muốn hoàn
toàn nhưng không của Thiên Chúa nhân từ và quyền năng, Ðấng Cứu Thế đã thông
truyền ảnh hưởng cứu rỗi cho các chi thể và đặc biệt cho Mẹ Người, là Ðấng ngay
từ đầu đã cộng tác với Người và với công việc Người. Ðó chính là nguyên tắc của
kế hoạch cứu rỗi hay nguyên tắc ban phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở
nên bí tích để ban phát đời sống đó. Còn Ðức Maria, là chi thể trổi vượt đầu
tiên, sẽ là khuôn mẫu cho Giáo Hội.
Số
này nói rất vắn tắt đến trọng tâm việc cộng tác của Ðức Maria. Là mẹ Thiên
Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của Chúa, Mẹ là cộng sự viên quảng đại của Ðấng Cứu Thế
và là Mẹ chúng ta trên bình diện ân sủng. Bản văn theo sát với sự thể hiện của
nhiệm vụ này. Nhờ hoàn toàn sẵn sàng tuân theo ý Chúa, Ðức Trinh Nữ đã mang
thai Chúa Giêsu, Ðấng sẽ xóa hết tội lỗi Dân Người. Ðức Maria đã sinh con và đã
nuôi nấng. Mẹ đã dâng Con cho Chúa Cha trong Ðền Thánh, đã đau khổ với cái chết
của Con trên Thánh Giá. Mẹ đã cụ thể hóa việc cộng tác tuyệt đối duy nhất này
trong sự tuân phục vô điều kiện, sự tuân phục thấm nhuần đức tin, đức cậy và đức
mến hăng nồng. Sự trung thành của Mẹ trong việc chấp thuận chương trình cứu rỗi
là then chốt cho việc quảng diễn các ý tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và 64).
15 Xem Kleutgen, ch.
IV bản đã sửa: De Mysterio Verbi incarnati: Mansi 53, 290. Xem T. Anrê Gret. In
nat. Mariae, bài giảng 4: PG 97, 865A. T. Germanô Constantinopla, In annunt.,
Deiparae: PG 98, 321 BC; In dorm. Deiparae III, 361D. T. Gio Damascenô, In
dorm. BV. Mariae, bài giảng 1, 8 : PG 90, 712BC-713A.
16 Xem Leô XIII, Tđ.
Adjutricem populi, 5-9-1895: ASS 28 (1895-96), trg 229. T. Piô X, Tđ. Ad diem
illum, 2-2-1904, văn kiện I, trg 154; Dz 1978a (3370). Piô XI, Tđ. Miserentissimus,
8-5-1928: AAS 20 (1929), trg 178. Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 13-5-1946: AAS
38 (1946), trg 266.
17 Xem T. Ambrosiô,
Epist. 63 : PL 16, 1218.
Là
Mẹ ban ân sủng, ở trên trời Ðức Maria tiếp tục một địa vị khác trong công trình
cứu rỗi. Tình mẫu tử của Mẹ tiếp tục hoạt động. Chắc chắn Mẹ không ban phát ân
sủng riêng, nhưng là ân sủng Chúa Kitô, vì không có ân sủng nào khác. Sứ mệnh của
Ðức Maria là liên kết Chúa Kitô với những phần tử làm thành Giáo Hội. Ðó là ý
nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn. Mẹ thực hiện sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân
loại. Do đó, mà Giáo Hội gọi Mẹ bằng các danh hiệu: Ðấng Bảo Vệ, Ðấng Phù Trợ,
Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ðấng Trung Gian. Các nhà thần học tranh luận về ý nghĩa
gán cho các tước hiệu ấy, nhất là tước hiệu sau cùng. Công Ðồng không muốn giải
quyết cuộc tranh luận, nhưng chỉ quả quyết một thực tại hoàn toàn được toàn thể
Giáo Hội chấp nhận, mà không bận tâm đến những điều xác định rõ rệt có tính
cách kỹ thuật. Công Ðồng cũng nói thêm là tước hiệu này không làm mất cũng
không thêm thắt gì vào địa vị và hành động của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy
nhất, vì không tạo vật nào có thể đóng vai trò trên cùng một bình diện như Chúa
Cứu Thế.
Tính
cách song đối giữa Ðức Maria và Giáo Hội đưa ra một chủ đề hoàn toàn mới mẻ
trong khoa thần học hiện thời. Quả thực được liên kết với Con mình trong công
trình cứu chuộc, Ðức Trinh Nữ Maria đã vượt trên mọi người khác và trở nên mẫu
mực Giáo Hội. Ðó chính là một phần tử trong nhóm đang hình thành, gây ảnh hưởng
trên người khác, lôi cuốn và làm gương cho họ. Ở đây Công Ðồng khai triển vắn tắt
chủ đề này về Ðức Maria là hình bóng Giáo Hội, không phải hình bóng hay mẫu mực
theo nghĩa thiết lập phẩm trật hay bí tích, nhưng như người cổ xúy đời sống
thiêng liêng trong đó sự đồng trinh nẩy nở thành tình mẫu tử.
18 Xem T. Ambrosiô,
Expos. Lc II. 7; PL 15, 1555.
19 Xem Phêrô Dam. Giả,
Serm. 63: PL 144, 861 AB. Godefridus a S. Victore, in nat. BM., Ms. Paris,
Mazarine, 1002, tờ 109c. Gerhohus Reich., De gloria et honore Filii hominis, 10
: PL 194, 1105 AB.
Trước
hết là đức đồng trinh, nhưng hiểu theo chiều hướng thiêng liêng. Nó hệ tại đức
tin và đức cậy nhờ đó Ðức Maria đã sinh Con Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần
mà không có sự liên lạc xác thịt nào với người nam, và như vậy đã trở thành người
Mẹ. Ðức Maria đã thụ thai Ngôi Lời trong tâm hồn trước khi thụ thai trong lòng.
Ðức đồng trinh tương quan với sự chấp thuận bất khả khuyết của đức tin. Ðức
Maria đi trước Giáo Hội ở điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Ðấng
sẽ làm cho Giáo Hội thành thân thể của Người.
20 Xem Ambrosiô,
Expos. Lc.II,7 và X,24-25; PL 15, 1555 và 1810. T. Augustinô, In Jo Tr. 13,12:
PL 35, 1499. Xem Serm. 191, 2,3: PL 38, 1010; v.v... Cũng xem chân phước Beda,
In Lc. Expos. I, ch. 2 : PL 92, 330. Isaac de Stella, Serm. 51: PL 194, 1863A.
Hình
thức song đối đã nói trên kết thúc ở đây: tính cách làm Mẹ đồng trinh của Ðức
Maria chính là bí tích, dấu hiệu hoặc hình ảnh của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ
thai và sinh dưỡng các con cái mình. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi theo Ðức
Maria, là việc đón nhận Lời Chúa trong tâm hồn. Ðón nhận có nghĩa là thực hành.
Như thế Giáo Hội trở thành mẹ của một cuộc sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc
sáng tạo mới. Sự đồng trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái -
hệ tại việc trung thành thực thi các nhân đức đối thần, theo gương Ðức Maria và
nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Ở
đây, Công Ðồng trình bày Ðức Maria như gương mẫu các nhân đức mà Giáo Hội phải
noi theo. Việc kính nhớ Mẹ Thiên Chúa làm cho tín hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập
Thể hơn vì có nhiều khía cạnh của mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa.
Ngay từ thời xa xưa, Giáo Hội đã cầu khẩn với Ðức Maria, nhờ thế mà Giáo Hội tiến
tới trên con đường đức tin và trên đường sứ mệnh tông đồ, trở nên giống với mẫu
mực của mình hơn.
Phần
này trực tiếp nói đến sự áp dụng giáo lý vào công việc giảng thuyết và tôn
kính. Mối bận tâm mục vụ của Công Ðồng được biểu lộ rõ rệt. Công Ðồng muốn rằng,
trong Giáo Hội, việc tôn kính và sùng mộ Ðức Maria phải chừng mực và chính
đáng; không trễ nải vì những ngờ vực vô ích hay sợ sệt; không quá khai thác những
tình cảm, tưởng tượng hoặc những điều thần học còn mơ hồ.
21 Xem Sách Nhật Tụng
Roma, xướng khúc "Sub tuum..." ở kinh chiều I của Tiểu tụng Ðức Mẹ.
Nền
tảng việc tôn kính Ðức Maria là do việc Mẹ Thiên Chúa được gắn liền với mầu nhiệm
cứu rỗi của Chúa Kitô. Vì Ðức Maria được dự phần vào mầu nhiệm này hơn bất cứ
ai khác, nên Giáo Hội đặc biệt tôn kính Mẹ. Việc tôn kính - bản chất của việc
sùng mộ - được gọi là đặc biệt (so sánh với việc tôn kính các Thánh), nhưng xét
theo yếu tính thì hoàn toàn khác biệt với việc tôn thờ chỉ dành riêng cho một
mình Thiên Chúa. Tiêu chuẩn của việc tôn kính là phải phù hợp với giáo lý chính
thống. Việc tôn kính chỉ có bảo đảm khi trung thành với ơn linh ứng riêng và phải
hoàn toàn hướng về Con duy nhất mà trong Người, Chúa Cha tác thành mọi sự. Việc
sùng mộ sẽ trở nên ảo tưởng nếu không đưa đến việc tuân giữ các giới răn Chúa.
Giả thiết như thế rồi, cũng còn phải lưu ý đến những hình thức tôn kính khác
nhau nhưng vẫn hợp pháp, do hoàn cảnh thời gian và nơi chốn tạo ra, hay do những
tâm tình khác nhau của mỗi dân tộc. Vậy phải thận trọng nhưng đừng có đầu óc
thiển cận. Việc tôn kính với cùng một hình thức như nhau sẽ trở nên nghèo nàn;
phải để quyền cho công giáo tính.
22 CÐ Nicea II, năm
787: Mansi 13, 378-379 ; Dz 302 (600-601). CÐ Trentô, khóa 25: Mansi 33,
171-172.
23 Xem Piô XII, sứ điệp
truyền thanh, 24-10-1954: AAS 46 (1954), trg 679. Tđ. Ad caeli Reginam,
11-10-1954: AAS (1954), trg 637.
Sau
cùng, Công Ðồng ban bố một vài qui tắc mục vụ cho việc giảng thuyết và tôn kính
Ðức Maria. Công Ðồng giới thiệu đặc biệt việc tôn kính có tính cách phụng vụ,
nhưng cũng không quên những hình thức, những việc thực hành đạo đức không đi
ngược với những nguyên tắc đã đề ra. Việc tôn kính theo phụng vụ được chú trọng
hơn là vì có sự chỉ dẫn trực tiếp của Giáo Hội. Những hình thức tôn sùng cũng
như Công Ðồng cổ võ, dù không bàn đến chi tiết. Những tiêu chuẩn để giảng thuyết
rất đơn giản: đừng tán tụng thái quá, không hẹp hòi thiển cận, hoàn toàn tuân
theo chỉ thị của Giáo Hội, biết dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền. Như vậy
Công Ðồng muốn ngay cả việc giảng thuyết về Ðức Mẹ cũng phải qui về Chúa Kitô.
Kết luận của số này là vài lời khuyên tổng quát về việc sùng mộ đích thực nhằm
gửi tới Dân Chúa (không chỉ bằng tình cảm nhất thời, không phải niềm tin viễn
vông, nhưng là sự thực hành sâu xa của một đức tin chính thực, lấy tình yêu hàm
chứa lòng biết ơn mà tuyên xưng sự cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và đức tin đó còn
làm cho chúng ta biết quảng đại noi theo sự hiệp nhất giữa Mẹ với Thiên Chúa).
Hai
vấn đề được đặt ra ở Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp nhất.
Số
này bàn đến một ý tưởng quan trọng: ý nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa
Giêsu đối với toàn thể Giáo Hội. Ðức Maria là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội.
Mẹ là dấu hiệu cậy trông. Mẹ cũng đã phải chịu thử thách nên do kinh nghiệm
riêng mà biết được gánh nặng của chúng ta. Tình thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ
khuyến khích chúng ta cố gắng không ngừng.
24 Xem Piô XI, Tđ.
Ecclesiam Dei, 12-11-1923: AAS 15 (1923), trg 581. Piô XII, Tđ. Fulgen corona,
8-9-1953: AAS 45 (1953), trg 590-591.
Ðây
là một điểm tế nhị. Nhiều người nghĩ dường như Ðức Maria là một trở ngại trên
con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Công Ðồng đã đề cập vấn đề theo khía cạnh
tích cực: Công Ðồng nhận định một sự kiện không ai chối cãi: trong số những anh
em ly khai, cũng có người kêu cầu đến Trinh Nữ hèn mọn thành Nazareth. Như vậy
vẫn còn hy vọng. Công Ðồng muốn mọi Kitô hữu cầu xin Ðức Maria cho việc hiệp nhất,
vì Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên xưng Con Mẹ là Ðấng Cứu Thế, và cho cả những
ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ vai trò làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng
ngời vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiến
Chế tín lý về Giáo Hội khởi đầu và kết thúc bằng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Từ
Thiên Chúa, do tình yêu mà có mọi sự, và trong tình yêu mọi sự qui về Ngài. Hiến
Chế này là một lời tuyên xưng đức tin không lay chuyển và sẽ không chịu sự hao
mòn của thời gian.
Thông Tri
Do vị Tổng Thư Ký của Thánh Công Ðồng
trong phiên họp khoáng đại lần thứ 123 ngày 16-11-1964.
Có
người thắc mắc về phẩm tính thần học của giáo thuyết được trình bày trong Lược
Ðồ về Giáo Hội và sẽ được đem ra đầu phiếu.
Ủy
ban lo về giáo thuyết, khi xét đến những "Ðề Nghị Tu Chỉnh" về chương
III Lược Ðồ về Giáo Hội, đã trả lời rằng:
"Dĩ
nhiên, phải luôn luôn giải thích văn kiện Công Ðồng theo những qui tắc chung mà
mọi người đều biết".
Nhân
dịp này, Ủy Ban Giáo Thuyết đã nhắc lại bản Tuyên Ngôn của mình, ngày 6-3-1964;
chúng tôi xin trích lại bản văn đó:
"Xét
theo tập tục Công Ðồng và chủ đích mục vụ của Công Ðồng hiện tại, Thánh Công Ðồng
nầy xác định rằng Giáo Hội chỉ phải tuân giữ những điều có liên quan đến đức
tin và phong hóa được chính Thánh Công Ðồng tuyên bố là như vậy".
"Còn
những điểm khác được Thánh Công Ðồng trình bày, vì là giáo thuyết của quyền
Giáo Huấn Tối Thượng của Giáo Hội, nên tất cả và mỗi một Kitô hữu phải chấp nhận
và hiểu theo ý của chính Thánh Công Ðồng, dựa trên những tiêu chuẩn của phương
pháp giải thích thần học: ý Công Ðồng tỏ lộ qua nội dung được trình bày hoặc
qua cách diễn tả của Công Ðồng".
Và
đây là một chú thích sơ khởi, mà Thượng Quyền gửi đến các Nghị Phụ đối với
"những Ðề Nghị Tu Chỉnh" liên quan đến chương III của Lược Ðồ về Giáo
Hội; giáo thuyết được trình bày trong chương III này phải được giải thích và hiểu
theo tinh thần và thể thức của chú thích này.
Chú Thích Sơ Khởi
"Trước
khi xét những "Ðề Nghị Tu Chỉnh", Ủy Ban quyết định trình bày những
nhận xét tổng quát sau đây:
1.
Cộng Ðoàn (collegium) không hiểu theo nghĩa thuần túy pháp lý, nghĩa là một
nhóm người bình đẳng, mà quyền hạn họ đã trao phó cho một vị chủ tịch; nhưng phải
hiểu là một nhóm người có tính cách vững bền mà cơ cấu tổ chức và quyền hành phải
được rút ra từ Mạc Khải. Cho nên, khi trả lời "Ðề Nghị Tu Chỉnh" số
12, chúng tôi đã nói rõ rằng: Mười Hai Tông Ðồ đã được Chúa thành lập theo thể
thức "một cộng đoàn hay một nhóm người có tính cách vững bền" : Cũng
xem Ðề Nghị Tu Chỉnh số 53, c. - Cũng vì vậy, chữ "Hàng" (hàng Giám Mục:
ordo) hay "Ðoàn" (corpus) cùng được dùng đây đó để chỉ "Cộng
Ðoàn Giám Mục". Sự đối chiếu: một bên là Phêrô với các Tông Ðồ khác, một
bên là Ðức Giáo Hoàng với các Giám Mục, không có nghĩa là quyền đặc biệt của
các Tông Ðồ đã được truyền lại cho các người kế vị và, dĩ nhiên, cũng không có
nghĩa là giữa vị Thủ Lãnh và các phần tử của cộng đoàn có sự bình đẳng; nhưng
chỉ muốn xác định một sự tương xứng giữa tương quan thứ nhất (Phêrô - Tông Ðồ)
và tương quan thứ hai (Ðức Giáo Hoàng - Các Giám Mục). Vì thế trong số 22, Ủy
Ban đã quyết định không dùng chữ "cũng vậy", nhưng dùng chữ
"tương tự như thế". Xem Ðề Nghị Tu Chỉnh 57.
2.
Người được phong chức giám mục và hiệp thông phẩm trật với Thủ Lãnh và với các
phần tử trong Cộng Ðoàn thì trở thành phần tử của Giám Mục Ðoàn. Xem số 22, 1
phần cuối.
Trong
việc tấn phong, có sự tham dự hữu thể vào các nhiệm vụ thánh, như Truyền Thống
và cả tập truyền phụng vụ đã chứng tỏ hiển nhiên. Sau khi thảo luận, Ủy Ban
dùng danh từ "nhiệm vụ" (munus) chứ không dùng danh từ "quyền
hành" (potestas), vì "quyền hành" có thể hiểu là một quyền hành
sẵn sàng để xử dụng. Thật ra, để có một quyền hành như thế thì cần phải có thêm
sự chỉ định theo giáo luật hoặc pháp lý của quyền bính phẩm trật. Sự chỉ định
này có thể là việc bổ nhiệm vào một chức vụ đặc biệt hay việc ủy thác trông coi
một số người và theo những qui luật đã được quyền tối thượng chấp thuận. Do bản
chất của sự việc, cần phải có qui luật cuối cùng như thế, bởi vì đó là những
nhiệm vụ phải được thực hành do nhiều phụ tá cộng tác theo phẩm trật do ý muốn
của Chúa Kitô. Hiển nhiên là trước khi viết thành bộ luật, thì sự "hiệp thông"
ấy đã được áp dụng trong đời sống Giáo Hội tùy theo hoàn cảnh của các thời đại.
Chính
vì thế mà Ủy Ban minh nhiên nói rằng: cần phải có sự hiệp thông phẩm trật với
Thủ Lãnh và với các phần tử của Giáo Hội. Hiệp thông, một ý niệm rất được Giáo
Hội thời xưa (cũng như thời nay, nhất là Giáo Hội Ðông Phương) đề cao. Ðó không
phải là tâm tình mơ hồ, nhưng là một thực thể hữu cơ. Nó đòi hỏi một hình thức
pháp lý, đồng thời được linh động nhờ đức ái. Do đó, sau khi được sự đồng ý của
hầu hết mọi người, Ủy Ban quyết định viết như sau: "trong sự hiệp thông phẩm
trật". Xem Ðề Nghị Tu Chỉnh số 40, và những chỗ đề cập đến chức vụ bổ nhiệm
theo giáo luật, số 24.
Những
văn kiện gần đây của các Ðức Giáo Hoàng về quyền tài thẩm của các Giám Mục phải
được giải thích theo sự hạn định cần thiết về những quyền hành ấy.
3.
Cộng Ðoàn, không thể có Cộng Ðoàn nếu không có Thủ Lãnh, "cũng là chủ thể
có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội". Cần phải chấp
nhận điều đó để quyền bính trọn vẹn của Ðức Giáo Hoàng Roma khỏi bị vi phạm.
Nói đến Cộng Ðoàn (Giám Mục), bao giờ người ta cũng phải hiểu là gồm có Thủ
Lãnh; và trong Cộng Ðoàn, Thủ Lãnh vẫn nắm giữ nguyên vẹn nhiệm vụ Ðấng Ðại Diện
Chúa Kitô và Chủ Chăn của Giáo Hội phổ quát. Nói cách khác, sự phân biệt không
phải là giữa Ðức Giáo Hoàng Roma và các Giám Mục hiệp lại, nhưng là giữa cá
nhân Ðức Giáo Hoàng Roma và Ðức Giáo Hoàng Roma cùng với các Giám Mục. Vì Ðức
Giáo Hoàng là Thủ Lãnh của Cộng Ðoàn nên chính ngài một mình có quyền hành động
trong một vài việc mà các Giám Mục không có thẩm quyền: ví dụ triệu tập và điều
khiển Cộng Ðoàn Giám Mục, phê chuẩn các quy luật hành động, v. v... Xem Ðề Nghị
Tu Chỉnh số 81. Ðức Giáo Hoàng, vì được trao phó nhiệm vụ chăn dắt toàn thể
đoàn chiên Chúa Kitô, nên tùy theo nhu cầu của Giáo Hội biến chuyển theo các thời
đại, ngài giữ quyền phán định cách thế thích hợp để thể hiện nhiệm vụ chăn dắt
trên, hoặc cách cá nhân hoặc cách cộng đoàn. Vì lợi ích của Giáo Hội, Ðức Giáo
Hoàng Roma hành động theo sự khôn ngoan của ngài để hướng dẫn, phát huy, phê
chuẩn sự thực thi quyền cộng đoàn.
4.
Là Ðấng Chăn Dắt Tối Cao của Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng có thể tùy ý thi hành quyền
bính của Ngài bất cứ lúc nào, theo sự đòi hỏi của nhiệm vụ Ngài. Còn Cộng Ðoàn,
tuy vẫn tồn tại luôn, nhưng không vì thế mà lúc nào cũng hành động với tính
cách thuần túy cộng đoàn, như Thánh Truyền Giáo Hội xác nhận. Nói cách khác,
không phải bao giờ Cộng Ðoàn cũng hành động "trong hiện thể trọn vẹn",
nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hành động một cách thuần túy cộng đoàn, và khi đó chỉ
vì Thủ Lãnh ưng thuận. Nói "Thủ Lãnh ưng thuận" để khỏi nghĩ đến sự
tùy thuộc như tùy thuộc vào một người ngoại cuộc. Trái lại, từ ngữ "ưng
thuận" nói lên sự hiệp thông giữa Thủ Lãnh với các phần tử, đồng thời giả
thiết sự cần thiết của một hành vi thuộc riêng vị Thủ Lãnh. Ðiểm này được minh
nhiên xác định trong số 22, 2 và được giải thích ở phần cuối số ấy. Cách nói
"chỉ vì" bao gồm tất cả mọi trường hợp: do đó dĩ nhiên là phải tuân
theo các qui luật được giáo quyền tối thượng chấp thuận. Xem Ðề Nghị Tu Chỉnh số
84.
Trong
tất cả các điểm trên, chúng ta thấy rõ vấn đề là ở chỗ các Giám Mục hiệp nhất với
Thủ Lãnh của mình và không bao giờ hành động cách độc lập đối với Giáo Hoàng.
Trong trường hợp sau này, khi không có hành động của Thủ Lãnh, các Giám Mục
không thể hành động như một Cộng Ðoàn được, như ý niệm "Cộng Ðoàn"
cho thấy. Thánh Truyền luôn minh chứng có sự hiệp thông phẩm trật giữa tất cả
các Giám Mục với Ðức Giáo Hoàng.
Chú
Ý: Nếu không có hiệp thông phẩm trật, thì các Giám Mục không thể thi hành nhiệm
vụ thực thể lãnh nhận do Bí Tích. Nhiệm vụ đó phải được phân biệt với khía cạnh
giáo luật - pháp lý. Nhưng Ủy Ban nghĩ là không cần phải bàn đến các vấn đề hợp
pháp và thành sự, và để lại cho các nhà thần học thảo luận, cách riêng trong những
gì liên can tới việc thi hành quyền bính hiện có nơi anh em ly khai Ðông
Phương. Về điểm này, có nhiều giải thích khác nhau.
Pericles
Felici
Tổng Giám Mục hiệu tòa Samosate
Tổng Thư Ký Thánh Công Ðồng Vaticanô II
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét