Bông
Hoa Dâng Mẹ - Bài giảng tĩnh tâm tháng 5.2016 tại Đan Viện Châu Sơn của Đức Tổng
Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt
I.ĐỨC MẸ LÀ BÔNG HOA
Trong tháng Hoa ta muốn dâng kính Đức Mẹ nhiều bông hoa nhưng thiết
tưởng không có hoa nào sánh được với Đức Mẹ. Đức Mẹ chính là bông hoa hường mầu
nhiệm. Bông hoa đẹp trổi vượt các loài hoa. Vẻ đẹp của Đức Mẹ khiến Đức Mẹ trở
thành Mater amabilis. Đức Mẹ dễ thương dễ mến, dễ thương dễ mến trước mặt Thiên
Chúa và Mẹ dễ thương dễ mến cả đối với con người. Dễ thương dễ mến là một nhân
đức. Nhân đức bao gồm nhiều vẻ đẹp. Ở nơi Đức Mẹ ta thấy có ít nhất 4 vẻ đẹp
này:
1.Vẻ
đẹp trinh trắng.
Vẻ đẹp trinh trắng không chỉ nói về sắc dục. Như Đức Mẹ khẳng định
với sứ thần: “Tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Nhưng còn về tất cả
đời sống. Tất cả vẻ đẹp của Đức Mẹ được gói gọn trong lời chào của Tổng lãnh
Thiên thần Ga-bri-en: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”
(Lc 1,28).
Đầy ân sủng có nghĩa là không vướng chút bợn nhơ nào. Tâm hồn con
người ví như chiếc bình chứa đựng ân sủng. Tội lỗi là những vật dơ bẩn, chướng
ngại. Có tội lỗi cản trở, tâm hồn không thể có ân sủng. Tội nhẹ thì cũng không
thể đầy ân sủng. Một tâm hồn đầy ân sủng có nghĩa là tâm hồn hoàn toàn trong sạch.
Không có chút tội lỗi nhỏ nhặt nào.Ân sủng của Thiên Chúa đổ đầy vào tâm hồn Đức
Mẹ. Tâm hồn Đức Mẹ lãnh nhận được đầy tràn ân sủng. Không mất mát hư hao chút
nào. Nếu sự thánh thiện của Chúa được diễn ta qua phẩm phục trắng tinh: “Y phục
Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được
như vậy” (Mc 9,3), thì tâm hồn Đức Mẹ cũng giống như một tấm vải trắng không tì
vết. Một chiếc bình rỗng không. Có thể chứa được đầy tràn ân sủng.
Hơn nữa Đức Mẹ còn có Chúa ở cùng. Không chỉ có ân sủng của Thiên
Chúa, Đức Mẹ có chính Chúa là nguồn mạch mọi ân sủng, là trọn vẹn mọi ân sủng,
là ân sủng trổi vượt - ân sủng tràn đầy - ân sủng phong phú. Không chỉ là nguồn
suối ân sủng nhưng là cả một dòng sông ân sủng, là cả đại dương ân sủng và cả
kho tàng ân sủng chứa trong tâm hồn Đức Mẹ.
Một điều khiến tâm hồn Đức Mẹ trổi vượt mọi tâm hồn thánh thiện nhất.
Đó là Đức Mẹ không chỉ có Đức Chúa ở cùng theo bí tích hay theo nhiệm hiệp. Đức
Mẹ có Đức Chúa cụ thể, sống động, bằng xương bằng thịt. Đó là Ngôi Lời nhập thể,
là Thiên Chúa làm người. Đức Mẹ không chỉ là Đền Vàng cho Thiên Chúa ngự trị,
không chỉ là lâu đài Đa-vít cho vị vua kế vị cai trị. Còn hơn thế Đức Mẹ nên một
với Đức Chúa. Thiên Chúa tượng thai trong cung lòng Đức Mẹ. Máu thịt của Đức Mẹ
trở thành máu thịt của Thiên Chúa nhập thể. Còn gì cao quí hơn. Đó là Mình Máu
Chúa. Chứa đựng Thiên Chúa đã là cao quí lắm rồi nhưng còn hơn thế, Đức Mẹ trở
thành chính Máu Thịt của Chúa. Phải là Máu Thịt vô cùng tinh tuyền trong sạch mới
xứng đáng trở thành Máu Thịt của Con Thiên Chúa Chí Thánh.
Mô-sê chỉ được diện kiến dung nhan Thiên Chúa thôi mà diện mạo của
ông đã sáng láng rồi. Đức Mẹ được mang chính Thiên Chúa trong mình. Máu thịt của
Chúa hoà lẫn với máu thịt của Đức Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ có một vẻ đẹp không bút
nào tả nổi. Vẻ đẹp trinh trắng nguyên khôi. Vẻ đẹp rạng ngời thánh đức. Vẻ đẹp
chiếu toả dung nhan Thiên Chúa. Nhưng thật lạ lùng, vẻ đẹp vô song ấy lại ẩn giấu
trong vẻ đẹp khiêm nhường sâu xa.
2.Vẻ
đẹp khiêm nhường:
Đức Mẹ là một tấm gương khiêm nhường tuyệt đỉnh.
Khiêm nhường khi xưng mình là nữ tỳ của Chúa. Tổng lãnh Thiên thần
báo tin lớn lao nói lên vai trò cao trọng của Đức Mẹ: “Thưa Bà Ma-ri-a, xin đừng
sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh j một con trai,
và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao.
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.
Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô
tận” (Lc 1,30-33).
Theo lời sứ thần Đức Mẹ sẽ sinh ra vị quân vương thuộc dòng tộc
Đa-vít. Như thế Đức Mẹ sẽ trở thành hoàng thái hậu. Thân Mẫu của vị quân vương
được muôn dân trông đợi từ bao đời. Cao quí biết bao! Đáp lại những lời long trọng
loan báo một địa vị cao quý, Đức Mẹ khiêm nhường thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa” (Lc 1,38). Nữ tỳ là thân phận thấp hèn nhất thời ấy, là tầng lớp rốt
cùng trong xã hội, thậm chí không được coi là người mà chỉ ngang hàng với súc vật
do Chủ toàn quyền sử dụng thậm chí có thể giết chết mà không có tội gì. Nô lệ
được buôn bán như một món hàng. Khi xưng mình là nữ tỳ, Đức Mẹ không nói một lời
hoa mỹ nhưng là một sự thực: Đức Mẹ hoàn toàn từ bỏ bản thân, để Thiên Chúa
toàn quyền sử dụng đời mình.
Không chỉ xưng mình là nữ tỳ trước mặt vị Tổng lãnh Thiên thần, Đức
Mẹ vẫn xưng mình là nữ tỳ trước mặt bà chị họ. Chính Bà Ê-li-sa-bét khi chứng
kiến những sự lạ lùng diễn ra trong bản thân: đứa con trong bụng nhảy mừng khi
nghe lời Đức Mẹ chào, đã xưng tụng Đức Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ
nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này” (Lc 1,42-43). Lập tức Đức Mẹ trả lời bằng cất lên
bài Magnificat tuyệt diệu ca tụng Thiên Chúa. Thiên Chúa đầy quyền năng làm nên
những việc lạ lùng còn Đức Mẹ chỉ là người tôi tớ thấp hèn nhưng được Chúa đoái
thương:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
thần trí tôi hớn hở vui mừng,
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới.
Từ nay hết mọi đời,
sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,46-48).
Hiển nhiên Đức Mẹ coi đó là một sự thực. Nhận thức thân phận của
mình là hư vô trước mặt Chúa. Tất cả đều bởi Chúa. Tất cả đều do tình thương của
Chúa.
Không chỉ xưng mình là nữ tỳ, Đức Mẹ cư xử như một nữ tỳ thực sự.
Không chỉ là nữ tỳ của Thiên Chúa, Đức Mẹ còn trở nên nữ tỳ của loài người. Đức
Mẹ ở lại với bà Ê-li-sa-bét cho đến khi bà sinh con. Trong căn nhà neo đơn, bà
Ê-li-sa-bét thai nghén, Đức Mẹ quán xuyến mọi việc trong nhà: Chợ búa, nấu nướng,
quét dọn, giặt giũ, may vá… như một người tôi tớ.
Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường, không chỉ hạ mình mà còn hạ mình
thẳm sâu, đến tận cùng. Không chỉ phụng sự Thiên Chúa mà còn phục vụ cả con người.
Không lạ gì Đức Mẹ được Thiên Chúa sủng ái đặc biệt. Đó chính là điều Đức Mẹ cảm
nghiệm:
“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư,
người giầu có , lại đuổi về tay trắng” (Lc 1 51-53)
Khi hiện diện tại tiệc cưới Ca-na, Đức Mẹ thật khiêm nhường. Có lẽ
Đức Mẹ giúp phục vụ dưới bếp nên biết rõ tình hình thiếu rượu và khi giúp đỡ Đức
Mẹ cũng thật kín đáo. Đức Mẹ khẩn cầu Chúa một cách kín đáo rồi nhắc nhở đám
gia nhân. Nên nhớ chỉ với gia nhân chứ không phải với ông quản tiệc hay với cô
dâu, chú rể. Và cũng rất kín đáo, chỉ tập trung vào Chúa Giê-su: “Người bảo gì
các anh hãy làm theo” (Ga 2,5). Đó là sự khiêm nhường nhưng thể hiện sự quan
tâm giúp đỡ.
3.Vẻ
đẹp quan tâm giúp đỡ:
Người đầy Thiên Chúa cũng có tấm lòng của Thiên Chúa, luôn quan
tâm đến người khác, luôn muốn cho đi, luôn muốn quên mình. Đức Mẹ là như thế.
Khi vừa thụ thai Chúa Giê-su, nếu Đức Mẹ lo lắng chuẩn bị cho mình
cũng là hợp lý. Vì Chúa Giê-su cũng cần chuẩn bị và Đức Mẹ cũng neo đơn. Nhưng
được tin bà chị họ Ê-li-sa-bét đang có thai, lập tức Đức Mẹ lên đường. Không phải
lên đường bình thường nhưng là “vội vã lên đường”. “Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã
lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông
Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét” (Lc 1, 39-40). Trong mầu nhiệm cứu độ
thì Thiên Chúa vội vã đến gặp dân Người và chuẩn bị cho Gio-an Tẩy giả, người dọn
đường. Nhưng về phương diện con người, Đức Mẹ quan tâm đến bà chị họ đang mang
thai trong tuổi già lại neo đơn. Nếu chỉ vì gặp gỡ và để Chúa Cứu Thế tha tội
cho thánh Gio-an, Đức Mẹ có thể trở về ngay nhưng vì quan tâm đến bà chị họ,
nên Đức Mẹ ở lại hẳn ba tháng để phục vụ bà. Thật là một trợ giúp khiêm nhường,
tế nhị và đúng lúc cần thiết.
Tại tiệc cưới Ca-na Đức Mẹ cũng biểu lộ sự quan tâm như thế. Chúa
Giê-su đã nói rõ điều đó: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi
chưa đến” (Ga 2,4). Quan tâm là coi việc của người khác cũng như việc của mình.
Đặc biệt trong tình cảnh khốn khổ. Việc hết rượu chẳng can gì đến Đức Mẹ và
Chúa Giê-su nhưng tấm lòng quan tâm và muốn giúp đỡ khiến Đức Mẹ bị liên luỵ.
Và Đức Mẹ vào cuộc. Chúa Giê-su vì Đức Mẹ cũng phải thay đổi chương trình, để
lòng mình “chạnh lòng thương” những người khốn khổ.
Sau khi Chúa Giê-su về trời Đức Mẹ vẫn quan tâm đến các tông đồ. Một
sự quan tâm luôn ân cần, hiệu quả nhưng cũng luôn tế nhị, kín đáo. Chắc chắn
trong những ngày tang tóc đầy bối rối Đức Mẹ luôn ở bên các tông đồ. Đức Mẹ đã
an ủi vỗ về Phê-rô. Đức Mẹ qui tụ các ông, cầu nguyện cùng các ông, cùng hờ đợi
Chúa Thánh Thần ngự đến. “Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về
Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong
ngày sa-bát. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là
các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Bác-tô-lô-mê-ô,
Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-mon thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con
ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng
với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức
Giê-su” (Cv 1,12-14). Chỉ sau khi Chúa Thánh Thần ngự đến, các tông đồ vững mạnh.
Giáo hội thành hình. Đức Mẹ mới thực sự ẩn dật trong cô tịch với Thiên Chúa. Đó
chính là vẻ đẹp trung tín.
4. Vẻ
đẹp trung tín:
Đức Mẹ đứng dưới chân thánh giá là biểu tượng của lòng trung tín.
“Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu,
bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu
và môn đề mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng:
“Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể
từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19, 25-27).
Đã nhận lãnh nhiệm vụ đón nhận Chúa Giê-su, Đức Mẹ trung tín với
nhiệm vụ đó, có mặt từ khi Chúa Giê-su tượng thai cho đến khi Chúa Giê-su từ
giã trần gian.
Đứng dưới chân thánh giá để tiếp tục cưu mang Chúa Giê-su trong
cung lòng trinh trắng. Để tiếp tục bày tỏ tấm lòng khiêm nhường. Quả thật, lúc
Chúa vinh quang không thấy Đức Mẹ đâu nhưng trong giờ phút đau khổ tủi nhục nhất,
lại thấy Đức Mẹ có mặt: để xác nhận đây là con mình, cùng chịu đau khổ với con,
cùng chịu nhục nhã với con, cùng chịu lưỡi đòng đâm thâu trái tim đau đớn vô
cùng. Đứng dưới chân thánh giá để tiếp tục quan tâm giúp đỡ. Chẳng giúp được gì
ngoài sự hiện diện nhưng là sự trung tín.
Và để một lần nữa Mẹ nói lên lời “Xin Vâng”. Xưa kia xin vâng ý
Chúa Cha, nay xin vâng ý Chúa Con để tiếp tục lãnh nhận nhân loại và để tiếp tục
yêu thương nhân loại. Trung tín với Chúa, Đức Mẹ cũng trung tín với loài người.
Quả thật từ xưa mỗi khi nhân loại lâm vào cảnh khốn cùng, Đức Mẹ lại
hiện ra giúp đỡ, ủi an, vạch đường chỉ lối. Ta hãy xem ba trường hợp tiêu biểu.
*Gua-đa-lúp-pê:
Sau khi Krit-tốp Cô-lôm khám phá ra châu Mỹ, một làn sóng truyền
giáo mạnh mẽ tràn sang miền đất mới. Tại Mê-hi-cô, các cha dòng Phan-xi-cô gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với nền văn hoá Mai-a và Az-te-ca. Việc truyền
giáo không mấy thành công. Ngày 9-12-1531, Đức Mẹ hiện ra với thổ dân Hoan
Đi-e-gô. Sai ông đi trình với Đức Giám mục xây một nhà thờ kính Đức Mẹ trên đồi
Te-pei-ac. Thoạt tiên Đức Giám mục không tin. Nhưng đã có những bằng chứng tỏ
tường. Chú của Hoan Đi-e-gô được Đức Mẹ chữa lành cách lạ lùng. Và nhất là những
bông hồng trái mùa hái được trên đỉnh đồi cao lại in thành hình Đức Mẹ trên chiếc
khăn tin-ma của Hoan Đi-e-gô. Đức Giám mục tin tưởng và cấp tốc cho xây nhà thờ
kính Đức Mẹ. Từ đó việc truyền giáo phát triển nhanh chóng. Có đến 80% dân số
Mê-hi-cô tin Chúa. Và trung tâm Gua-đa-lúp-pê trở thành trung tâm Thánh Mẫu lớn
trên thế giới. Đức Mẹ Gua-đa-lúp-pê quả là Đức Mẹ của việc truyền giáo.
*La-vang:
Vào năm 1798 vua Cảnh Thịnh ra lệnh bắt đạo. Vua quan truy lùng gắt
gao những người có đạo để giết đi. Người dân miền Quảng Trị chạy trốn vào rừng.
Và Đức Mẹ đã hiện ra tại La-vang để an ủi những người con khốn khổ. Từ đó trải
qua hơn ba thế kỷ chịu bắt bớ, tín hữu Việt nam luôn kiên cường tuyên xưng đức
tin. Có rất nhiều vị tử đạo. Con số lên đến hằng trăm ngàn. Nhiều vị tử đạo
không còn danh tính. Nhất là trong việc Văn Thân vào cướp phá các làng công
giáo. Giết chết người công giáo cách vô tội vạ. Tại nhiều nơi như Phú ninh
(giáo phận Bùi chu), Cao mại (giáo phận Thái bình), Bảo nham và Tam toà (Giáo
phận Vinh), Bà Rịa (giáo phận Bà Rịa), Văn Thân rình lúc người tín hữu đi lễ
ngày Chủ nhật đông đảo, đóng cửa nhà thờ và thiêu sống tín hữu trong đó. Miền bắc
còn truyền tụng câu vè : Phú ninh quằn quại, Cao mại đau thương. Nhưng nhờ Đức
Mẹ La-vang nâng đỡ ủi an, người tín hữu Việt nam kiên cường tuyên xưng đức tin,
đã có rất nhiều vị tử đạo, làm cho đức tin vững mạnh và phát triển trên đất nước
Việt nam. Đó là kết quả của Lòng Thương Xót của Đức Mẹ.
*Fa-ti-ma:
Vào năm 1917 khi chiến tranh thế giới thứ nhất đang hoành hành khốc
liệt. Biết bao thành phố bị tàn phá. Biết bao người thiệt mạng. Biết bao người
lâm cảnh màn trời chiếu đất. Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên là
Lu-xi-a, Gia-xin-ta và Phan-xi-cô tại Fatima để cảnh báo nhân loại. Vì tội lỗi
quá nhiều, nên con người sẽ phải chịu nhiều thảm hoạ. Thảm hoạ ghê gớm nhất là
hoả ngục. Rồi đến chiến tranh và bắt bớ. Kể cả Đức Thánh Cha cũng bị ám sát. Đức
Mẹ yêu thương muốn cứu thoát con người nên đã chỉ cho con người 3 phương thế là
Sám Hối, Lần Hạt và Tôn Sùng Trái Tim Đức Mẹ.
Sứ điệp Fatima thật quan trọng vì ảnh hưởng đến toàn thể thế giới.
Vì thực tế trong lịch sử nhân loại, Đức Mẹ đề cập đến nhiều trường hợp cụ thể
như nước Nga, như tiên báo Đức Thánh Cha bị ám sát. Những lời tiên báo này đã ứng
nghiệm cụ thể. Vì thế ba vị Giáo hoàng sau cùng đều quan tâm kêu gọi mọi người
hãy lắng nghe và thực hành lời Đức Mẹ dậy để cứu vãn thế giới.
Quả thật Đức Mẹ có Lòng Thương Xót vô biên. Đức Mẹ luôn đứng dưới
chân thánh giá. Giờ đây thế giới đau thương như đang bị đóng đinh, Đức Mẹ vẫn
trung tín đứng dưới chân thánh giá: để Thương Xót loài người; để cảm thông chia
sẻ và nhất là để tìm phương thế cứu giúp con người.
Tạ ơn Chúa Giê-su đã trối lại cho ta người Mẹ hiền tuyệt vời tràn
đầy Lòng Thương Xót. Tạ ơn Mẹ luôn trung tín với Lòng Thương Xót để luôn Thương
Xót chúng con. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Mẹ nhắn nhủ để
chúng con được thừa hưởng Lòng Thương Xót của Chúa mà tránh được các hiểm hoạ
hoả ngục, chiến tranh và bắt bớ.
II.HOA
LÒNG DÂNG MẸ
Với những hiểu biết hạn hẹp chúng ta cũng đã thấy những nét đẹp
tuyệt vời trong cuộc đời Đức Mẹ. Đó chính là những bông hoa hiếm có trong đời sống
con người. Vì thế trong tháng Hoa dâng kính Mẹ, không gì bằng ta hãy noi gương
Đức Mẹ, cũng trở thành những bông hoa thơm tho xinh tươi theo gương Đức Mẹ. Đó
là những bông hoa khiến Đức Mẹ hài lòng nhất.
1.Hoa
trinh trắng:
Nhìn vào xã hội hôm nay ta càng thấy sự trinh trắng thật quí giá.
Thế giới đang tràn đầy ô nhiễm. Tại quê hương ta nạn ô nhiễm đang trở nên trầm
trọng. Đặc biệt tháng 4 -2016, hiện tượng cá chết hàng loạt tại các bờ biển miền
Trung càng khiến người ta ghê sợ nạn ô nhiễm. Ô nhiễm dẫn đến cái chết tức khắc
nhưng cũng tiềm ẩn cái chết dần mòn. Chất độc ngấm vào đất nước, vào cây cỏ.
Người tiêu dùng ngấm dần, rồi sinh bệnh tật dẫn đến chết dần. Hiểm độc là nước
nhìn vẫn trong xanh nhưng không ngờ có nọc độc ẩn tàng.
Vụ cá chết không chỉ bộc lộ ô nhiễm nguồn nước nhưng còn cho thấy
nhiều thứ ô nhiễm khác. Đó là ô nhiễm lương tâm. Ô nhiễm luân lý. Ô nhiễm lý
trí. Ô nhiễm chính trị.
Ô nhiễm lương tâm. Những
người gây ra vụ ô nhiễm nguồn nước hành động vô lương tâm. Họ vì quyền lợi mà
giết hại biển cả. Giết hại cá mú. Giết hại cả những ngư dân chỉ sống nhờ biển
nhờ cá.
Ô nhiễm luân lý.
Luân lý giúp người ta cư xử theo đạo lý. Con người có những qui tắc phải tuân
giữ khi cư xử với bản thân và với tha nhân. Càng ở cấp lãnh đạo cao cấp càng phải
có nền luân lý tương xứng. Vụ cá chết là một hành xử thiếu đạo đức nghiêm trọng.
Ô nhiễm lý trí.
Người gây ra cái chết của cá thiếu hẳn lý trí, hành động mù quáng theo bản
năng. Không còn biết phân biệt phải trái, thiện ác, đúng sai. Không xác định được
bậc thang giá trị. Thật sai lầm khi đặt dân tộc dưới chính quyền. Tiền bạc trên
đạo đức. Vật chất hơn con người. Lợi nhuận trên sự sống. Phe nhóm hơn toàn thể.
Ô nhiễm chính trị.
Chính trị là nghệ thuật phục vụ hạnh phúc của người dân, làm cho đất nước ổn định,
phát triển. Những người gây ra vụ cá chết không còn biết thế nào là chính trị
vì làm cho đất nước lạc hậu, nghèo túng, thui chột, làm cho dân tình bất an tạo
nên bất ổn.
Như nước biển ô nhiểm gây nên cái chết của tôm cá. Các ô nhiễm
khác gây nên cái chết của con người, của xã hội. Có cái chết tức khắc. Có cái
chết tiềm ẩn. Dần mòn. Bằng bệnh tật. Suy nhược. Mất sự sống dần dần trong cơ
thể.
Trong cộng đoàn tu trì cũng có nạn ô nhiễm. Khi nọc độc bị gieo rắc
vào đời sống chung. Nọc độc những tin đồn thất thiệt. Nọc độc nạn ngồi lê đôi
mách. Nọc độc truyền đi những tư tưởng xấu. Nọc độc tục hoá. Chia rẽ. Bè phái.
Đòi hỏi quyền lợi theo tinh thần thế tục.
Trong tình hình ô nhiễm, giữ được tâm hồn trinh trắng là một cuộc
chiến đấu khốc liệt. Phải có phân định, có lập trường, có ơn Chúa, có đạo đức
ta mới giữ được tâm hồn trinh trắng. Trinh trắng quả là một bông hoa quí hiếm
nhưng có được bông hoa trinh trắng dâng lên Đức Mẹ chắc chắn khiến Đức Mẹ hài
lòng.
2.Hoa
khiêm nhường
Thế gian tràn đầy kiêu ngạo. Đặc biệt trong thời đại đề cao hiệu
quả và thành công. Vì kiêu ngạo nên có tranh chấp, đấu đá, âm mưu sát hại.
Nhưng kiêu ngạo thường được nguỵ trang và biến tướng. Ta có thể thấy vài nguỵ
trang và biến tướng của kiêu ngạo.
Dấu hiệu dễ thấy nhất của kiêu ngạo là khoe khoang. Khoe khoang những
điều có thật đã là khó coi rồi huống hồ còn nói phét một tấc lên đến trời. Khoe
khoang cũng thường hay nói về bản thân.
Dấu hiệu thứ hai là lên lớp. Có những người việc gì cũng biết, việc
gì cũng xen vào, luôn muốn dạy dỗ người khác. Có thể lầm tưởng là nhiệt tình phục
vụ nhưng thực ra đó là dấu hiệu của kiêu ngạo.
Một biến tướng của kiêu ngạo là tự ái. Tự ái cao thì dễ bị chạm tự
ái, khó tha thứ, không để ai nói đụng chạm đến mình. Ai đã đụng chạm đến mình
thì nhớ mãi với sự hận thù dai dẳng, thậm chí suốt đời.
Giận dữ là một biến tướng của kiêu ngạo. Vì không hài lòng, không
được như ý. Vì người ta làm sai ý, khác ý nên nổi giận. Có những cơn giận dữ lồng
lộn như thú dữ.
Một đặc tính khác của thời đại góp phần cổ vũ kiêu ngạo. Đó là sự
đề cao cá nhân, muốn độc đáo và không đụng hàng. Điều này dễ rơi vào thói tự
tôn, khẳng định mình quá đáng.
Trong một thời đại như thế sống khiêm nhường thật khó. Phải phấn đấu
lắm mới có thể hạ mình trước mặt người khác. Phải lội ngược dòng thời đại để
tìm quên mình, nhận mình bé nhỏ nghèo hèn và vui tươi khi bị thua thiệt; chọn
chỗ thấp hèn nhất, chọn công việc tầm thường nhất. Đó chính là bông hoa hiếm
hoi. Đó chính là bông hoa quí giá. Đó chính là hương thơm thanh khiết trong cõi
đời ô trọc làm giảm nhiệt thế giới kiêu ngạo, làm dịu đi bầu khí đấu tranh. Đó
chính là bông hoa đẹp lòng Đức Mẹ.
3.Hoa
quan tâm giúp đỡ
Chúng ta đang sống trong thời đại cá nhân chủ nghĩa. Con người qui
về bản thân. Cái tôi là quan trọng vì thế thường nghĩ về mình, nghĩ cho mình,
khép kín vào bản thân, đòi hỏi người khác phục vụ mình mà ít nghĩ đến người
khác. Vì thế nhiều thảm cảnh xảy ra. Trong gia đình vợ chồng lục đục, đồng sàng
dị mộng. Chung quanh đan viện chúng ta trong những ngày vừa qua đã có nhiều thảm
cảnh gia đình. Vợ làm gì chồng không biết. Vợ giấu kín những hoạt động của
mình. Nhưng khi đổ bể thì thật là thảm hoạ. Gia đình tan nát.
Nhiều bậc cha mẹ ngày nay
không hiểu nổi con cái. Con cái sống trong nhà như trong một thế giới lạc loài
học hành, giao tiếp, cư xử hoàn toàn khác. Cha mẹ không hiểu được. Tâm tư nguyện
vọng, kiến thức Cha mẹ càng không hiểu. Vì thế gây nên khoảng cách giữa các thế
hệ.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa ta đã chứng kiến nhiều tệ nạn: Biến
của chung thành của riêng, trộm cắp của chung, bòn rút của chung, xà xẻo quỹ
chung mượn danh nghĩa chung để thủ lợi riêng…
Tâm thức thời đại len lỏi cả vào các cộng đoàn tu trì. Sống chung
nhưng mỗi người vẫn là một thế giới riêng vì thế quan tâm đến nhau thật khó và
thông cảm với nhau càng khó hơn. Nhiều tu sĩ cô độc giữa một cộng đoàn đông đúc
là điều không hiếm thấy. Mẹ Tê-rê-xa dạy ta bất cứ khi đến đâu, hãy tìm đến những
người bé nhỏ, nghèo hèn nhất. Chỉ khi gặp được người bé nhỏ nhất, ta mới gặp được
Chúa. Chúa Giê-su ở trong người bé nhỏ nhất. Khi quan tâm phục vụ người bé nhỏ
nhất, tôi được gặp Chúa và được phục vụ chính Chúa. Đó chính là bông hoa cao
quí nhất, là phần thưởng cao quí nhất dành cho chính tôi, là bông hoa dâng lên
được Đức Mẹ đoái nhận.
4.Hoa
trung tín:
Thời đại hôm nay là thời đại của thay đổi. Thời của hưởng thụ. Thời
của tiện nghi. Thời của sản xuất. Thời của mua sắm… Nên người ta thay đổi chóng
mặt. Thay đổi hàng hoá. Thay đổi mẫu mã. Thay đổi kiểu dáng. Mau chán cái cũ và
thích tìm cái mới.
Thời đại hôm nay cũng là thời đại vất bỏ. Chưa bao giờ vấn đề rác
thải trở thành nan giải như hôm nay. Người ta tiêu dùng quá nhiều. Người ta vất
bỏ quá nhiều. Xử lý rác trở thành vấn đề lớn.
Tâm lý tiêu dùng ăn sâu vào cuộc sống, ảnh hưởng cả vào những mối
liên hệ sâu xa nhất. Khái niệm về trung tín trở thành cổ hũ lỗi thời. Người ta
thay người như thay áo. Thậm chí thay đổi cả vợ chồng. Xưa kia hôn nhân hầu như
là tuyệt đối bền vững. Ngày nay ly dị trở thành bình thường, hợp thì ở mà không
hợp thì bỏ. Ngày nay với sự phát triển thông tin, mạng, người ta có quan hệ rộng
rãi hơn, quen biết nhiều người hơn nhưng bỏ nhau cũng dễ dàng hơn.
Tính hay thay đổi và văn hoá vất bỏ cũng lan tràn vào đời sống tu
trì. Chúng ta dễ thay lòng đổi dạ: Không trung tín với Chúa; không trung tín với
lời khấn; không trung tín với đoàn sủng của Đấng Sáng Lập; không trung tín với
bổn phận hằng ngày, nhất là cầu nguyện.
Trong tình hình mọi sự đều thay đổi, kể cả lòng người. Trung tín
đang trở thành một điều hiếm hoi. Đó là bông hoa quí ta dâng Đức Mẹ và chắc chắn
Đức Mẹ sẽ thương đoái nhận.
III.KẾT
LUẬN
Tất cả những loại hoa trinh
trắng, khiêm nhường, quan tâm giúp đỡ và trung tín là những loại hoa quí hiếm
vì không thể tìm thấy dễ dàng ở ngoài đồng ruộng và càng không thể mua bán ngoài
chợ hoa.
Đó là những loại hoa phải tự tay ta làm ra. Để làm ra những loại
hoa đó cũng rất khó. Ta không thể dùng chất liệu nào khác mà phải dùng chính bản thân mình, dùng chính
tâm hồn mình.
Để làm được những loại hoa đó cũng tốn kém. Không tốn kém tiền bạc
nhưng tốn kém bản thân: Phải gọt dũa chính mình; phải uốn nắn chính mình và nhất
là phải từ bỏ chính mình.
Nhưng khi sản phẩm thành hình sẽ rất giá trị. Giá trị vì giống Đức
Mẹ. Vì đó là những loại hoa Đức Mẹ ưa thích, là những loại hoa Đức Mẹ suốt đời
vun trồng. Chẳng còn gì khiến Đức Mẹ vui hơn là thấy những người con giống Mẹ.
Những bông hoa này sẽ rất thơm. Mùi hương thơm kín đáo nhẹ nhàng nhưng sâu lắng,
len lỏi vào những chỗ thâm sâu nhất của tâm hồn, của cộng đoàn. Và hương thơm vững
bền mãi mãi.
Có được những bông hoa ấy tôi mới thực sự sống tinh thần tháng
Hoa. Có được những bông hoa ấy tôi mới thực sự có những bông hoa đích thực. Có
được những bông hoa ấy tôi mới thực sự dâng hoa cho Đức Mẹ.
+TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét