Thánh Bác-na-ba
Tông Đồ
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau
khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia
(tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô.
Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong
suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng đồng hành với Thánh Phao-lô
trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như tới vùng Tiểu Á.
Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng này, các Tông Đồ
đã thống nhất quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở nơi người Do-thái
lẫn nơi người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một
cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên
quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu
gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, người em họ của
Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó,
Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô đã đến thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp,
quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại,
Thánh Bác-na-ba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo
Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng
theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí
Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám
mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và
được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền thuyết
khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo
thông qua việc bị ném đá đến chết.
Một
số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm
quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại. Có một bức thư
mang tên của Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng ngũ
các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo
nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng
và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi được
coi như thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã xuất hiện
khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu Ước có tính bài
Do-thái của mình, nên bức thư này không được công nhận là của Thánh Bác-na-ba.
Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng nó đã bị thất
truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi cho tới thế kỷ
XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền thống này
phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu
Do-thái. Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích
thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tương
truyền về việc Thánh Bác-na-ba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng
tin cậy hơn. Theo đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời
hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn
thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Đông đảo
Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết trên ngôi mộ của
Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với
Đức Thượng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng
Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng
Antiochia đã thu hồi quyết định đó. Theo tương truyền, vào năm 477, trong một
buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp,
và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi
hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, người ta phát
hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường của Ngài là Thánh
Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh
Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh
Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình
hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục
của Giáo hội Sýp đã thuyết phục được nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Zýp được
thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo hội
Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối đã
bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này được cho là có khả
năng chữa lành cũng như có khả năng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ
vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến
thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các
Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba đã được tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau
trên nước Ý, và tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Đức), Toulouse
(Pháp) và Namur (Bỉ).
Từ
năm 1530, Hội Dòng do Thánh Anton Maria Zaccaria thành lập đã đến đóng đô tại
Tu Viện Thánh Bác-na-ba tại Mi-lan. Người ta cũng gọi Hội Dòng này là Dòng
Thánh Bác-na-ba.
Vào
năm 1521, người Pháp muốn đánh chiếm thành phố Logroño của Tây-ban-nha. Nhưng
sau hơn 6 tuần vây hãm, người Pháp vẫn không sao chiếm được thành phố này, nên
đành phải rút quân. Ngày lui binh của quân đội Pháp rơi đúng vào ngày 11 tháng
06 cùng năm. Vì thế, ngay sau khi quân Pháp triệt thoái, Thánh Bác-na-ba đã được
thành phố Logroño nhận làm Bổn Mạng. Trong ngày mừng Bổn Mạng của mình, người
dân thành phố Logroño luôn sử dụng cá để làm món ăn chính, vì trong suốt hơn 6
tuần bị người Pháp vây đánh, dân chúng của thành phố này đã sống sót được nhờ
vào cá bắt từ hồ Ebro.
Ngay
từ thế kỷ thứ IX, Thánh Bác-na-ba đã được Giáo hội Rô-ma kính nhớ vào ngày 11
tháng 06, nhưng các Giáo hội Phương Đông thì lại cử hành Lễ kính Thánh Nhân vào
ngày 11 tháng 04.
Giáo
hội Tin Lành và Giáo hội Anh giáo củng cử hành Lễ Kính Thánh Bác-na-ba vào ngày
11 tháng 06.
Còn
Giáo hội Chính Thống thì cử hành hai ngày để kính Thánh Bác-na-ba, đó là ngày mồng
04 tháng Giêng và ngày 11 tháng 06.
Riêng
tại Giáo hội Armenia thì Thánh Bác-na-ba được mừng kính tới 4 ngày, gồm: mồng
09 tháng 04; 11 tháng 06; 29 tháng 10, và thứ Năm sau Chúa Nhật Suy Tôn Thánh
Giá.
Giáo
hội Cóp-tít cử hành hai ngày Kính Thánh Bác-na-ba: 11 tháng 06 và 17 tháng 12.
Giáo
hội Chính Thống Syria cử hành ba ngày kính Thánh Bác-na-ba, gồm: 11 tháng 05,
11 tháng 06 và 17 tháng 12.
(Theo
heiligenlexikon.de)
Minh Trần – CTV của trang thông tin Giáo xứ Thánh Mẫu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét