Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân dịp Ngày Quốc Tế vì Người Nghèo lần thứ nhất, CN XXXIII TN, 19.11.2017: Đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng bằng việc làm!

Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân dịp Ngày Quốc Tế vì Người Nghèo lần thứ nhất, CN XXXIII TN, 19.11.2017: Đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng bằng việc làm!

1.”Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18). Những lời đó của Thánh Gio-an Tông Đồ thể hiện một mệnh lệnh mà không có bất cứ Ki-tô hữu nào có thể lảng tránh. Sự nghiêm túc mà với nó, “người môn đệ Chúa Yêu” đã công bố giới luật của Chúa Giê-su cho tới tận thời đại chúng ta hôm nay, sẽ trở nên rõ ràng cách đặc biệt thông qua sự đối kháng giữa những lời nói suông mà chúng ta hay thực hiện nơi đầu môi chót lưỡi với những việc làm cụ thể mà thực ra chúng ta được kêu gọi để so đọ. 

Đức Ái không cho phép người ta đưa cớ để cáo lỗi: ai muốn yêu thương như Chúa Giê-su đã yêu thương, người ấy phải hoàn toàn theo gương Ngài. Điều đó có hiệu lực đặc biệt khi vấn đề là người nghèo. Cách thức mà Con Thiên Chúa đã yêu thương thì hoàn toàn quen thuộc, và Thánh Gio-an đã nhắc cho chúng ta nhớ tới những cột trụ của cách thức đó, mà những cột trụ ấy có khả năng nâng đỡ, với những lời rất rõ ràng: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (xc. 1Ga 4.10.19); và Ngài vô cùng yêu thương chúng ta, đến độ đã trao hiến mạng sống của Ngài cho chúng ta (xc. 1Ga 3,16). Một Tình Yêu như thế không thể không được đáp trả. Dù rằng Tình Yêu này được ban tặng từ một phía với một cách thức vô điều kiện, và không hề đợi chờ sự đáp đền, nhưng Tình Yêu ấy lại thiêu đốt những con tim, đến độ bất chấp tất cả mọi giới hạn cá nhân cũng như bất chấp mọi tội lỗi, những con tim ấy vẫn được đưa tới chỗ đáp trả Tình Yêu. Điều đó sẽ thành hiện thực nếu chúng ta đón nhận ân sủng của Thiên Chúa và Tình Yêu nhân hậu của Ngài vào trong lòng chúng ta trong phạm vi chúng ta có thể, đến độ ý chí và kể cả cảm nhận của chúng ta về Tình Yêu đối với chính Thiên Chúa và đối với tha nhân nữa, cũng đều được thôi thúc. Bằng cách ấy, Lòng Xót Thương mà có thể nói được rằng, nó phát sinh từ cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ có thể mang cuộc sống chúng ta vào trong sự chuyển động, cũng như có thể làm phát sinh sự đồng cảm và làm phát sinh những công việc đầy Lòng Xót Thương đối với những người anh chị em cùng khốn.

2.”Người nghèo kêu cầu và Chúa lắng nghe” (Tv 34,7). Giáo hội đã luôn luôn nhận ra tầm quan trọng của một tiếng kêu như thế. Những trang đầu tiên của sách Công Vụ Tông Đồ đã làm chứng cho điều đó khi Thánh Phê-rô mời gọi tuyển chọn bảy người “đầy Thần Khí và khôn ngoan” (Cv 6,3) để ủy thác cho họ công việc phục vụ những người nghèo. Chắc chắn, đó là một trong những dấu chỉ đầu tiên mà nhờ đó, Cộng Đoàn Ki-tô giáo bước lên sân khấu thế giới: phục vụ những người túng thiếu nghèo hèn nhất. Giáo hội có thể thực hiện tất cả những điều ấy vì Giáo hội nhận thức được rằng, cuộc đời của người môn đệ Chúa Giê-su phải được diễn tả trong tình huynh đệ và tình liên đới, mà chúng tương ứng với giáo huấn có tính nền tảng của vị Thầy, Đấng đã từng tuyên bố rằng, phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ (xc. Mt 5,3). “Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,45). Ở đây, sự chăm lo chân thành của các Ki-tô hữu tiên khởi đã trở nên rõ ràng. Thánh Lu-ca tác giả Tin Mừng, người đã trao nhiều không gian cho đề đài về Lòng Thương Xót hơn tất cả các đề tài khác, đã không chỉ tạo ra những mỹ từ khi Ngài tường thuật cho thấy các Ki-tô hữu đã chia sẻ tài sản của họ như thế nào. Hoàn toàn ngược lại, khi Ngài tường thuật về việc đó, Ngài đã có chủ ý nói với các tín hữu thuộc mọi thời đại, kể cả với chúng ta, để động viên chúng ta trong việc làm chứng, và khích lệ chúng ta hãy dấn thân cho những người túng thiếu nghèo hèn nhất. Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ cũng dậy chúng ta điều tương tự với việc làm chứng giống hệt như thế. Trong bức thư của mình, Ngài đã chọn những lời lẽ hết sức mạnh mẽ và đầy ấn tượng: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao? Thế mà anh em, anh em lại khinh dể người nghèo! Chẳng phải những người giàu áp bức anh em đó sao? Chẳng phải họ lôi anh em ra toà đó sao? […] Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,5-6.14-17).

3.Tuy nhiên, cũng có những khoảnh khắc mà trong đó các Ki-tô hữu đã không thực sự chú tâm tới lời mời gọi ấy nơi chiều sâu của nó, và thay vào đó, còn để cho mình bị lây nhiễm bởi những cách nghĩ đầy tính thế tục. Nhưng Chúa Thánh Thần đã không bao giờ xao nhãng trong việc nhắc nhớ họ hãy nhìn về những điều chính yếu. Vì Ngài vẫn không ngừng hồi sinh những người nam và những người nữ mà họ đã trao hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ những người nghèo. Biết bao nhiêu là trang sử đã được viết ra trong 2000 năm qua bởi các Ki-tô hữu mà họ đã phục vụ những anh chị em túng thiếu nghèo hèn nhất trong tất cả sự giản dị và khiêm nhượng, cũng như với tất cả sự sáng tạo bao la mà chỉ có Đức Ái mới có thể trao ban cho họ! Nổi bật trong số những Ki-tô hữu ấy chính là Thánh Phan-xi-cô Assisi, người mà trong suốt nhiều thế kỷ đã được vô vàn các vị Thánh Nam và Thánh Nữ khác noi theo. Ngài không hài lòng với việc chỉ ôm lấy những bệnh nhân phong cùi và trao cho họ một ít của bố thí, nhưng còn quyết định đi tới Gubbio để sống chung với họ. Trong cuộc gặp gỡ này, chính Ngài đã thấy được sự kiện hoán cải to lớn của mình: “Khi tôi ở trong tội lỗi, tôi rất ngại nhìn những người bệnh cùi, rất lấy làm cay đắng nếu phải nhìn họ. Và chính Thiên Chúa đã dẫn tôi đến giữa họ, và tôi đã chứng minh cho họ thấy Lòng Thương Xót. Và khi tôi rời xa họ, thì điều mà nó khiến tôi cay đắng và ngại ngùng, đã được biến thành sự dịu ngọt của tâm hồn và thân xác” (Testament 1-3). Chứng từ này diễn tả sức mạnh biến đổi của Đức Ái cũng như diễn tả lối sống Ki-tô giáo. Vì thế, chúng ta đừng nghĩ những người nghèo chỉ là những người đón nhận một sự phục vụ tự nguyện được thực hiện một lần duy nhất vào dịp cuối tuần, hay một cử chỉ thiện chí có tính ứng biến tùy hứng nhằm ru ngủ lương tâm của chúng ta. Thực ra, những hành vi ấy rất giá trị, và hoàn toàn có thể giúp chúng ta lưu tâm tới những nhu cầu của những người anh chị em chúng ta, cũng như lưu tâm tới những bất công mà hoàn cảnh của họ thường dẫn tới. Sau cùng, những hành vi ấy nên dẫn chúng ta đi tới một cuộc gặp gỡ thực sự với những người nghèo, cũng như nên trao không gian cho thái độ sẻ chia mà nó nên trở thành phong cách sống của chúng ta. Lời cầu nguyện, con đường của người môn đệ và sự hoán cải sẽ thấy được một sự chứng thực cho sự đáng tin thuộc về Tin Mừng của họ trong Đức Ái, mà Đức Ái có nghĩa là sẵn sàng sẻ chia. Từ cách sống này, niềm vui và sự bình an trong tâm hồn sẽ đến, vì nó cho phép chúng ta đụng chạm tới thân xác của Chúa Ki-tô với đôi tay của mình. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Chúa Ki-tô thực sự thì chúng ta phải đụng chạm tới thân xác của Ngài ngay cả trong thân xác bị ngược đãi của những người nghèo – như là lời đáp cho sự hiệp thông Bí Tích trong Bí Tích Thánh Thể. Thân Thể Chúa Ki-tô, mà thân thể ấy được bẻ ra trong Bí Tích Thánh Thể, để cho mình được tái nhận ra trong khuôn mặt và trong con người của những anh chị em yếu đuối nhất khi chúng ta tiếp tục trao tặng Tình Yêu. Những lời sau đây của Thánh Gio-an Kim Khẩu Giám Mục có giá trị vượt mọi thời đại: “Phải chăng bạn muốn tôn kính thân mình Chúa Ki-tô? Vậy bạn đừng bỏ qua việc thân mình này đang trần truồng. Bạn đừng tôn kính Chúa trong nhà thờ với những bộ phẩm phục lụa là gấm vóc trong khi bạn lại bỏ mặc Ngài ngoài đường, nơi Ngài đang phải chịu đựng cái lạnh và sự trần truồng” (Bài giảng về Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, 50,3: PG 58). Vì thế, chúng ta được kêu gọi hãy giơ cánh tay ra cho những người nghèo, hãy gặp gỡ họ, hãy nhìn vào đôi mắt của họ, hãy ôm lấy họ, và hãy làm cho họ cảm thấy được hơi ấm của Tình Yêu, mà hơi ấm ấy có khả năng bẻ gẫy vòng xoắn ma quái của sự cô đơn. Cánh tay, mà về phía mình, họ giơ ra cho chúng ta, chính là một lời mời gọi hãy bung mình ra khỏi những sự an toàn và những tiện nghi của chúng ta. Nó mời gọi chúng ta nhận ra sự giầu sang mà sự nghèo khó đã chuẩn bị sẵn trong chính nó.

4.Chúng ta đừng quên rằng, đối với các môn đệ của Chúa Ki-tô, sự nghèo khó bao gồm một cách đặc biệt trong ơn gọi đi theo Chúa Ki-tô nghèo khó. Nó chính là con đường mà trên đó chúng ta đi theo Ngài, và trên đó, chúng ta lên đường cùng với Ngài; đó là một con đường mà nó dẫn tới hạnh phúc Nước Trời (xc. Mt 5,3; Lc 6,20). Sự nghèo khó đích thực có nghĩa là, có một con tim khiêm nhượng, mà với tư cách là một thụ tạo, con tim ấy biết những giới hạn và tình trạng tội lỗi của bản thân mình, và do đó, có thể kháng cự lại trước cơn cám dỗ tưởng mình toàn năng, mà cơn cám dỗ ấy làm ra vẻ mình bất tử. Sự khó nghèo chính là một thái độ của con tim mà nó ngăn cản việc chúng ta coi tiền bạc, đường công danh và sự xa hoa như là mục đích sống cũng như là những điều kiện căn bản và tiên quyết của niềm hạnh phúc. Đúng hơn, khó nghèo chính là điều tạo ra những điều kiện tiên quyết để nhận ra trách nhiệm cá nhân và cộng đồng trong niềm tín thác vào sự gần gũi của Thiên Chúa, và trong sự tự do được gánh mang bởi ân sủng của Ngài, bất chấp những giới hạn của chúng ta. Sự khó nghèo được hiểu như thế sẽ trở thành một tiêu chuẩn cho phép đánh giá cách cư xử cụ thể với những của cải vật chất, cũng như cho phép sống các mối tương quan riêng và sự thúc đẩy của ý chí trong một cách thức đầy vị tha và không chiếm hữu bất cứ điều gì làm của riêng (xc. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2545). Vì thế, chúng ta hãy thực hiện theo gương mẫu của Thánh Phan-xi-cô, chứng nhân của sự nghèo khó đích thực. Chính vì Ngài đã hướng nhìn lên Chúa Ki-tô, nên Thánh Nhân đã ở trong tình trạng dễ dàng nhận ra Chúa Ki-tô trong những người nghèo và sẵn sàng phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn đóng góp một chút gì đó để lịch sử thực sự thay đổi cũng như để tạo điều kiện cho sự phát triển thực thụ, thì chúng ta phải lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, cũng như phải dấn thân để giải thoát họ khỏi tình trạng bị loại trừ. Đồng thời Cha cũng xin nhắc những người nghèo trong các thành phố cũng như trong các cộng đồng của chúng ta rằng, họ đừng đánh mất ý nghĩa về sự khó nghèo của Tin Mừng, mà ý nghĩa ấy đã được khắc nghi trong cuộc sống của họ.

5.Chúng ta đều biết tới những khó khăn to lớn mà trong đó thế giới ngày nay đang đồng hóa mình với sự nghèo túng theo một cách thức rõ ràng. Nhưng những khó khăn đó cũng thúc giục chúng ta đi ra mỗi ngày, trong lúc chúng quan sát chúng ta với hàng ngàn khuôn mặt đang bị đánh dấu bởi sự đau khổ, bởi sự ruồng rẫy, bởi sự lạm dụng, bởi bạo lực, tra tấn, tù đầy, chiến tranh, bởi việc bị tước mất sự tự do và phẩm giá, bởi việc thiếu các cơ hội học tập, bởi nạn mù chữ, bởi tình trạng khốn khó về sức khỏe, bởi nạn thất nghiệp, nạn buôn người, nạn nô lệ, sự lưu đầy, nỗi khốn cùng và bởi việc bị ép buộc phải di cư. Sự nghèo túng có khuôn mặt của những người nam, người nữ và trẻ em mà họ đang bị bóc lột vì những mối quan tâm đê tiện, bị giày xéo bởi lô-gích đồi bại của quyền lực và tiền bạc. Người ta bị bắt buộc phải sưu tập một danh sách khủng khiếp và không bao giờ đầy đủ như thế khi tận mắt chứng kiến sự nghèo khổ mà nó chính là hoa trái của những bất công xã hội, cũng như của sự bần cùng về luân lý, của sự tham lam nơi một ít kẻ, và của sự thờ ơ chung đang ngày một phát tán. Nếu như trong xã hội ngày nay, một sự giầu sang quá đáng đang ngày càng lộ rõ, mà sự giầu sang ấy lại chỉ tập trung trong tay một ít kẻ nắm đặc quyền đặc lợi, và nó không hiếm khi xuất hiện kèm theo với sự bất hợp pháp và sự bóc lột đầy xúc phạm tới phẩm giá con người, thì việc mở rộng sự đói nghèo cũng đang gây ra sự phẫn nộ tại hầu hết các cộng đồng xã hội trên toàn thế giới. Khi tận mắt chứng kiến sự phát triển này, người ta sẽ không thể không hành động. Người ta có nghĩa vụ phải trả lời với một quan điểm mới về cuộc sống và xã hội cho một sự nghèo khổ mà nó hoàn toàn dập tắt óc sáng kiến của rất nhiều người trẻ cũng như ngăn cản họ trong việc tìm kiếm công ăn việc làm; phải trả lời cho một sự nghèo khổ mà nó đang ru ngủ sự ý thức về trách nhiệm và dẫn tới một hệ thống thoái thác trách nhiệm cũng như tìm kiếm sự che giấu cách phi pháp; phải trả lời cho một sự nghèo túng mà chúng đầu độc những nguồn nước chung và hạn chế không gian của giới lao động, và do đó, giảm bớt tiền lương của những người lao động và sản xuất; vâng, người ta phải có trách nhiệm trước tất cả những loại nghèo túng đó. Tất cả những người nghèo đó – như Chân Phúc Phao-lô VI Giáo Hoàng thường hay nói – đều thuộc về Giáo hội dựa vào “quyền chiếu theo Tin Mừng” (Bài diễn văn khai mạc phần thứ hai của Công Đồng Vatican II, 29.09.1963), và họ có bổn phận đối với Giáo hội vì một lựa chọn có tính căn bản. Thật đáng khen thay những đôi tay nào giơ ra cho người nghèo để giúp đỡ họ vì đó là những đôi tay mang đến niềm hy vọng. Thật đáng khen thay những đôi tay biết vượt qua bất cứ mọi rào cản nào thuộc về văn hóa, tôn giáo và quốc gia để rưới dầu an ủi xuống trên những vết thương của nhân loại. Thật đáng khen thay những đôi tay biết mở ra mà không mong được đáp đền, không nói NẾU, cũng không nói NHƯNG và cũng không CÓ LẼ: những đôi tay ấy đang làm cho phúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên những người anh chị em.

6.Nhân dịp bế mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, Cha đã thành lập cho Giáo hội một Ngày Quốc Tế Vì Người Nghèo, để trên toàn thế giới, các cộng đoàn Ki-tô giáo càng ngày càng trở nên những dấu chỉ tốt hơn cho Tình Yêu Chúa Ki-tô đối với những người cùng rốt cũng như đối với những người túng thiếu nghèo hèn nhất. Cha muốn rằng, Ngày Quốc Tế này sẽ được bổ sung vào danh sách những Ngày Quốc Tế khác mà các vị tiền nhiệm của Cha đã thiết lập và đã trở thành một truyền thống trong các cộng đoàn chúng ta. Nó sẽ bổ sung cho bức tranh tổng thể với một yếu tố vô cùng sâu sắc chiếu theo Tin Mừng: sự ưu ái đặc biệt của Chúa Giê-su đối với người nghèo. Cha mời gọi toàn thể Giáo hội cũng như tất cả những ai thành tâm thiện chí, nhân Ngày Quốc Tế này, hãy hướng cái nhìn của mình về những con người đang cầu xin sự giúp đỡ với cánh tay giơ ra, cũng như đang hy vọng vào tình liên đới của chúng ta. Đó là những người anh chị em của chúng ta, được sáng tạo nên và được yêu thương bởi một người Cha trên Trời duy nhất. Trước tiên, Ngày Quốc Tế này muốn cổ vũ các tín hữu để họ ngăn cản nền văn hóa vứt bỏ và nền văn hóa thừa bứa bằng một nền văn hóa đích thực của sự gặp gỡ. Đồng thời, một lời mời gọi cũng được dành cho tất cả mọi người, không phụ thuộc niềm tin tôn giáo, để họ mở tấm lòng ra cho sự sẻ chia với những người nghèo trong bất cứ hình thức liên đới nào, như là những dấu chỉ cụ thể của tình huynh đệ. Thiên Chúa đã sáng tạo nên trời và đất cho tất cả mọi người. Nhưng tiếc rằng nhiều người đã rạo ra những ranh giới, những vách ngăn và những rào cản, và tiếc rằng, ở đây họ đã phản bội lại với những ân ban đã được xác định cho toàn thể nhân loại ngay từ thuở ban đầu mà không hề có bất cứ sự loại trừ nào.

7.Trong năm nay, Ngày Quốc Tế Vì Người Nghèo sẽ rơi vào ngày 19 tháng 11, tức Chúa Nhật thứ XXXIII Thường Niên. Cha mong muốn rằng, trong những tuần trước đó, các Cộng Đoàn Ki-tô giáo sẽ dấn thân để tạo ra nhiều cơ hội cho sự gặp gỡ, để sống tình bằng hữu, sống tình liên đới cũng như thực hiện những việc giúp đỡ cụ thể. Sau đó họ có thể mời những người nghèo cùng với các cơ quan mà họ đang chăm sóc cho những người nghèo ấy đến tham dự buổi cử hành Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật này, để buổi cử hành Ngày Chúa Nhật Kính Chúa Ki-tô sau đó sẽ trở nên xác thực hơn. Thực ra, tầm quan trọng của vương triều Chúa Ki-tô biểu lộ ngay trên đồi Golgota, nơi Đấng Vô Tội bị treo trên Thập Giá, nghèo hèn, trần truồng và bị cướp hết tất cả, đã làm cho sự viên mãn của Tình Yêu Thiên Chúa trở thành xác phàm cũng như đã mạc khải sự viên mãn đó. Một mặt, sự trao hiến hoàn toàn của Ngài cho Thiên Chúa Cha diễn tả sự nghèo khó hoàn toàn của Ngài; mặt khác, thông qua đó, quyền năng của Tình Yêu này đã trở nên rõ rệt, tức quyền năng đã mang Ngài đến với sự sống mới vào Ngày Phục Sinh. Nếu có những người nghèo đang sống gần gũi với chúng ta mà họ tìm kiếm sự bảo vệ và giúp đỡ, thì vào ngày Chúa Nhật đó, chúng ta hãy đi đến với họ: Điều này sẽ trở thành một cơ hội thuận tiện để gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng chúng ta đang kiếm tìm. Theo giáo huấn của Kinh Thánh (xc. St 18,3-5; Dt 13,2), chúng ta hãy mời họ như là những người khách quý vào bàn ăn của chúng ta. Họ có thể trở thành những vị thầy, và những vị thầy này sẽ giúp chúng ta sống Đức Tin của mình cách nhất quán hơn. Với niềm tin tưởng của mình và với việc sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ, qua một cách thức đơn giản mộc mạc nhưng thường là vui mừng, họ sẽ chỉ cho chúng ta biết việc sống những điều căn bản cũng như việc hoàn toàn giao phó bản thân mình cho sự quan phòng của Thiên Chúa, quả là quan trọng biết chừng nào.

8.Nền tảng căn bản của những sáng kiến nhân Ngày Quốc Tế này, bao giờ cũng nên là lời cầu nguyện. Chúng ta đừng quên rằng, Kinh Lạy Cha chính là lời Kinh của người nghèo. Việc cầu xin lương thực diễn tả niềm tín thác vào Thiên Chúa trong những nhu cầu căn bản của cuộc sống chúng ta. Như Chúa Giê-su đã dậy chúng ta cầu nguyện bằng lời Kinh ấy, nó diễn tả và đón nhận tiếng kêu than của những người đang phải đau khổ vì thiếu kế sinh nhai cũng như vì thiếu những nhu yếu phẩm trong cuộc sống. Khi các môn đệ xin Chúa Giê-su dậy cho họ cách cầu nguyện, Ngài đã trả lời cho họ bằng những lời của người nghèo; những người nghèo ấy hướng về một người Cha mà trước Ngài, tất cả đều nhìn nhận nhau như là những người anh chị em. Kinh Lạy Cha là một lời cầu nguyện trong số nhiều: Lương thực mà chúng ta cầu xin cho được, chính là lương thực “của chúng con”, và điều này mang theo mình sự chia sẻ, sự tham dự và trách nhiệm chung. Trong Lời Kinh ấy, tất cả chúng ta đều nhận ra sự đòi hỏi phải vượt thắng bất cứ mọi hình thức ích kỷ nào, để đạt tới được niềm vui của việc đón nhận lẫn nhau.

9. Cha xin các hiền đệ trong hàng Giám mục, Linh mục và Phó tế - mà ơn gọi đặc biệt của anh em chính là việc giúp đỡ người nghèo -, các Tu sĩ, các hiệp hội và các phong trào, cũng như giới tình nguyện viên trên khắp hoàn cầu, hãy dấn thân để Ngày Quốc Tế vì Người Nghèo này trở thành một truyền thống mà nó góp phần một cách hoàn toàn cụ thể để thúc đẩy công cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay. Vì thế, ước chi Ngày Quốc Tề mới này sẽ trở thành một lời kêu gọi mạnh mẽ đối với lương tâm tín hữu của chúng ta, để chúng ta ngày càng có thể xác tín hơn rằng, sự chia sẻ với người nghèo sẽ tạo điều kiện cho chúng ta hiểu về Tin Mừng trong sự khôn ngoan thẳm sâu nhất của nó. Những người nghèo không phải là vấn đề. Đúng hơn, họ là một nguồn tài nguyên mà chúng ta có thể đến kín múc từ đó để đón nhận về cho mình điều căn bản của Tin Mừng cũng như để sống điều căn bản đó.

Từ Vatican ngày 13 tháng 06 năm 2017
Nhân ngày Lễ kính Thánh An-tôn Padua

ĐTC Phan-xi-cô

Minh Trần – CTV của trang thông tin Giáo xứ Thánh Mẫu – chuyển ngữ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét