Nguyên văn cuộc
đối thoại giữa Đức Thánh Cha Phan-xi-cô và các Linh Mục tại Caserta
Vào
chiều thứ Bảy vừa qua, trước khi cử hành Thánh Lễ tại Caserta, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
đã gặp gỡ các Linh Mục của Giáo phận nằm tại phía Nam nước Ý này. Đây là một cuộc
đối thoại có cường độ tập trung sâu, trong một bầu khí rất thân mật và có tính
gia đình. Cuộc gặp gỡ này diễn ra trong nguyện đường hoàng hậu thuộc khu hoàng
gia Caserta. Sau đây là nguyên văn cuộc đối thoại giữa các Linh Mục và Đức
Thánh Cha.
Đức Cha D´Alise,
Giám mục của Giáo phận Caserta:
„Thưa
Đức Thánh Cha, con đã không hề viết sẵn ra giấy bất cứ một từ nào, vì con ý thức
rằng, Đức Thánh Cha mong muốn thực hiện một cuộc đối thoại thân mật và có chiều
sâu với các Linh Mục. Con chỉ xin nói với Đức Thánh Cha một cách mộc mạc thế
này thôi: xin nhiệt liệt chào mừng Đức Thánh Cha! Đây là Giáo hội của chúng con
với các Linh Mục của chúng con, và rồi chúng ta sẽ nhìn thấy những thành phần
khác của Giáo hội cũng như sẽ cử hành Bí Tích Thánh Thể. Khoảnh khắc này rất
quan trọng đối với con, thực ra con mới ở đây từ hai tháng nay, nhưng việc khởi
đầu sứ vụ Giám Mục của con bằng chuyến viếng thăm và phúc lành của Đức Thánh
Cha, quả là một điều tốt lành trong những điều tốt lành mà con đã được nhận. Giờ
đây chúng con sẽ chăm chú lắng nghe những lời của Đức Thánh Cha, bởi chúng con
biết rằng, Đức Thánh Cha mong muốn một cuộc đối thoại. Các Linh Mục của chúng
con đã chuẩn bị sẵn những câu hỏi.“
Đức Thánh Cha
đáp:
„Cha
đã chuẩn bị sẵn một bài diễn văn, nhưng Cha trao bản văn ấy cho Đức Giám Mục.
Xin cám ơn về lòng hiếu khách. Cám ơn. Cha rất vui với việc hiện diện tại đây,
và có một mặc cảm tội lỗi là, Cha đã làm cho anh em phải chi tiêu quá nhiều vào
Đại Lễ mừng vị Thánh Bổn Mạng của anh em. Cha đã không biết điều đó. Khi Cha gọi
điện tới Tòa Giám Mục để hỏi xem liệu Cha có nên thực hiện một chuyến viếng thăm
cá nhân hay không để gặp gỡ mục sư Traettino, mà thực ra ông ta là người bạn của
Cha, và người ta đã nói với Cha thế này: ´Ấy nhưng mà hôm đó là Lễ Bổn Mạng của
thành phố`. Ngay lập tức Cha đã nghĩ tới việc báo chí sẽ giật một hàng tít lớn:
Giáo Hoàng đến thăm người Thệ Phản vào ngày Lễ Bổn Mạng của người Công Giáo! Một
tiêu đề rất hay đấy chứ, đúng không?
Và
vì thế chúng tôi đã sắp xếp mọi chuyện cho đâu vào đấy, thực ra nó đã diễn ra
hơi nhanh, nhưng Đức Giám mục của anh em đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều về điều
đó, cũng như các nhân viên tại viện Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.
Khi
Cha gọi điện cho vị đại diện, Cha đã nói với ông: ´Xin vui lòng lấy đi khỏi tôi
cái thòng lọng treo ở cổ.` Và ông đã làm điều đó rất tốt.
Cha
cám ơn anh em một lần nữa về những câu hỏi của anh em cũng như những lời đề nghị
của anh em: chúng ta nên bắt đầu ngay. Nhưng mà thế này, chúng ta sẽ trả lời một
lúc cho hai hoặc ba câu hỏi có được không, hay cứ sau mỗi một câu hỏi thì lại là
một câu trả lời?“
Câu hỏi thứ nhất:
Sự hiệp nhất giữa các Giám Mục
„Kính
thưa Đức Thánh Cha, con xin hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha! Con là Linh Mục tổng
đại diện của Giáo phận Caserta, và tên của con là Don Pasquariello. Câu hỏi của
con là như sau: Điều tốt lành mà Đức Thánh Cha mang đến cho Giáo hội Công Giáo
với những bài giảng vào mỗi buổi sáng của Đức Thánh Cha, những văn kiện chính
thức – và con nghĩ một cách đặc biệt tới Thông Điệp Evangelli Gaudium – đó là
những điều rất quan trọng đối với việc hoán cải tinh thần và cá nhân. Sự hoán cải
này liên quan tới ý tưởng của con về những lãnh vực thuộc Thần Học, chú giải và
triết học. Bên cạnh việc hoán cải cá nhân này – điều rất quan trong đối với ơn
cứu độ của linh hồn – với tư cách cá nhân, con thấy rằng, sẽ là điều rất tốt nếu
như Đức Thánh Cha đưa đến cho dân Chúa nhiều hơn nữa, vì kỳ thực họ là một dân.
Con muốn nói một cách rõ ràng hơn rằng: Giáo phận của chúng con có những cách
phân chia ranh giới rất phi lý từ 900 năm nay: một số cộng đồng dân sự bị chia
ra cho hai hoặc ba Giáo phận. Khu vực chung quanh nhà ga xe lửa của Caserta thì
thuộc về Giáo phận Capua, mặc dầu nhà xứ chỉ nằm cách đó có mấy thước. Vâng, Đức
Thánh Cha đã viết ở trong Thông Điệp Evangelii Gaudium rằng, các Giám Mục có
nhiều điều để nói, nhưng chúng con còn nên đợi chờ cho tới bao lâu nữa? Trước
đây, một ai đó thuộc viện Quốc Vụ Khanh đã nói với chúng con rằng, nếu các Giám
Mục của chúng con đồng thuận với nhau thì các Ngài đã ký tên vào việc tái phân
chia Giáo phận tại Tòa Thánh rồi.“
Đức Thánh Cha:
„Các
nhà Giáo Sử học đã nói rằng, trong những Công Đồng đầu tiên, một số Giám Mục đã
bị đánh trọng thương, thậm chí còn bị đánh bể đầu, nhưng khi kết thúc, các Ngài
vẫn tìm được sự đồng tâm nhất trí. Chẳng đẹp đẽ gì khi một Giám Mục lại đi nói
xấu về một Giám Mục khác, hay khi các Ngài vào phe vào cánh với nhau. Cha không
có ý nói để suy tư về sự giống nhau, hay để có được một sự hiệp nhất như nhau về
tinh thần, Cha nói về những phe phái trong ý nghĩa tiêu cực nhất của từ ngữ này.
Thật chẳng đẹp đẽ gì vì họ đã hủy hoại sự hiệp nhất của Giáo hội. Điều đó chẳng
có gì để làm với Thiên Chúa. Và trái lại, các Giám Mục chúng tôi phải trở nên một
mẫu gương của sự hiệp nhất, như Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha ban điều ấy cho
Giáo hội.
Người
ta không thể nói xấu về người khác. Không! Hãy đi đến với cá nhân người ấy và nói
thẳng thắn trước mặt họ. Các vị tiền bối của chúng ta đã bị đánh bể đầu tại các
Công Đồng, và Cha thích rằng, thà người ta la mắng nhau và sau đó lại ôm ghì
nhau vào lòng, và đừng nói xấu người khác sau lưng. Cha nhìn điều đó như là quy
luật nền tảng: Điều quan trọng trong sự hiệp nhất của Giáo hội là thế này, có sự
hiệp nhất giữa các Giám Mục. Các Ngài đã làm nổi bật nên con đường mà Chúa
Giê-su đã sắp đặt cho Giáo hội. Và sự hiệp nhất giữa các Giám Mục cũng thúc đẩy
việc kiếm tìm sự đồng tâm nhất trí.
Trong
một đất nước – đất nước ấy bây giờ không phải là nước Ý – có một Giáo phận nhận
được ranh giới mới, nhưng vì người ta không thể đồng thuận với nhau, trong khi
đó, cứ sự thường thì có nhiều tài sản được cất giấu trong nhà thờ Chính Tòa của
Giáo phận. Quá trình kiện tụng đã kéo dài tới hơn bốn chục năm. Xảy ra tất cả
những điều đó chỉ vì tiền. Cha không hiểu điều đó! Nhưng ma quỷ thì ăn mừng! Hắn
là kẻ chiến thắng trong những vụ như vậy.
Thật
là tuyệt vời khi các sử gia nói rằng, các Giám Mục vẫn tìm thấy được sự đồng
tâm nhất trí, nhưng các Ngài vẫn luôn phải biến điều đó thành sự hiệp nhất, chứ
không phải là sự giống nhau. Bất cứ ai cũng đều có những đoàn sủng riêng, mỗi
người đều nghĩ tới người khác và nhìn về những vấn đề của người khác. Những
quan điểm khác biệt này cũng có thể dẫn đến những lầm lỗi, nhưng thường thì
chúng là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần muốn rằng, trong Giáo hội
có sự đa dạng này về các đoàn sủng. Chúa Thánh Thần tạo điều kiện cho sự khác
biệt để chúng mang đến sự hiệp nhất; một sự hiệp nhất mà trong đó mỗi người đều
có sự khác biệt, không phải là việc người
ta đánh mất đi cái ngôi vị riêng.
Cha
hy vọng rằng, vấn đề sẽ không tiếp tục xảy ra như thế nữa tại Giáo phận anh em, như cha Tổng Đại Diện
đã mô tả. Nhưng tất cả chúng ta đều là những người tốt, vì chúng ta đã được
lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, và chúng ta có Chúa Thánh Thần trong mình, Ngài sẽ
giúp chúng ta tiến về phía trước.“
Câu hỏi thứ hai:
Lòng đạo đức bình dân
„Con
là Linh mục Angelo Piscopo, là cha sở của Giáo xứ Thánh Phêrô Tông Đồ, và của Đại
Thánh Đường Thánh Phêrô. Câu hỏi của con là thế này: Thưa Đức Thánh Cha, trong
bức Thông Điệp Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người khuyến
khích và tăng cường lòng đạo đức bình dân, đó là một kho tàng quan trọng của
Giáo hội Công giáo. Nhưng đồng thời Đức Thánh Cha cũng đã chỉ cho thấy những mối
nguy hiểm – mà tiếc rằng chúng đang có trong thực tế - và thực ra đó là sự phát
tán một thứ Kitô giáo nhuốm màu chủ nghĩa cá nhân và ủy mị đa cảm, mà chúng chỉ
chú ý tới những hình thức cổ truyền, nhưng không hề liên hệ đến những bình diện
nền tảng của Đức Tin, và cũng tách rời khỏi cuộc sống xã hội. Đức Thánh Cha có
thể cho chúng con lời chỉ dẫn nào liên quan tới việc này để chúng con khuyến
khích một sự mục vụ mà nó không đi ngược lại với lòng đạo đức bình dân và đồng
thời vẫn lưu tâm tới tính ưu việt của Tin Mừng? Con xin chân thành cám ơn Đức
Thánh Cha.“
Đức Thánh Cha:
„Người
ta nói rằng, chúng ta sống trong một thời đại mà trong đó sự mộ đạo trở thành
điều không quan trọng, nhưng Cha không tin điều đó. Nhưng chắc hẳn là đang có
những khuynh hướng này, đang có những cái có thể gọi là những trường phái đạo đức
cá nhân, họ rất tôn sùng thuyết bất khả tri, và có một sự chăm sóc tinh thần, nó
rất giống với những lời cầu nguyện tiền Kitô giáo, có nghĩa là nó giống như những
lời cầu nguyện nằm ngoài Kinh Thánh, hay thuộc về phái bất khả tri. Chủ thuyết
bất khả tri đã thâm nhập Giáo hội thông qua những nhóm ấy. Cha gọi khuynh hướng
này là ´chủ nghĩa thân mật`. Khuynh hướng này không đưa tới điều tốt lành cho
chúng ta. Ở đây người ta cảm thấy mình được hiệp thông với Thiên Chúa một cách
bình an và thoải mái. Nó hơi giống với con đường của New Age, ngay cả khi nó là
một cái gì đó khác đối với tôi.
Thực
ra có sự sùng đạo, nhưng đó là một sự sùng đạo thuộc ngoại giáo hay thậm chí là
lạc giáo, nếu Cha có thể nói như vậy. Chúng ta đừng sợ hãi trong việc nói về
thuật ngữ đó, vì chủ nghĩa bất khả tri
giờ đây đã là một lạc giáo. Đó là lạc giáo đầu tiên trong lịch sử Giáo hội.
Khi Cha nói về sự sùng đạo thì sau đó Cha nói về chính kho tàng của Lòng Thương
Xót mà nó chứa đựng rất nhiều giá trị, và Đức Đại Giáo Hoàng Phao-lô VI đã mô tả
về nó trong Thông Điệp Evangelii Nuntiandi. Hãy nghĩ tới một điều: Văn kiện của
Aparecida. Văn kiện này đã được thảo ra trong cuộc hội nghị lần thứ năm của các
Giám Mục Mỹ Châu La-tinh, trong chương áp chót, đã thực hiện một mối liên quan
tới Thông Điệp Evangelii Nuntiandi mà nó được biên soạn cách nay đúng 40 năm.
Điều đó có nghĩa là, bất cứ bản văn nào cũng có tính thời sự, vì chính Đức
Phao-lô VI đã khẳng định rằng, lòng đạo đức bình dân đôi khi cũng đòi phải có
Tin Mừng, vì nếu không thì sẽ đưa đến điều nguy hiểm rằng, nó sẽ trở nên khiếm
diện và không còn thay thế cho một đời sống Đức Tin mạnh mẽ nữa.
Nhưng
lòng từ tâm của nhân loại đến từ con tim của họ thông qua Bí Tích Thanh Tẩy, và điều
này là một động lực lớn, vì Dân Thiên Chúa không thể lầm lạc trong tính toàn thể
của mình, và không hề sai lầm trong Đức Tin, như đã được viết trong Hiến Chế
Lumen Gentium số 12. Lòng đạo đức bình dân đích thực phát sinh thông qua cảm thức
Đức Tin, như được mô tả trong văn kiện trên của Công Đồng, và là sự dẫn đưa tới
việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, với Mẹ Thiên Chúa cũng như với những cách
thế diễn đạt bình dân trong những ý nghĩa tốt lành. Vì thế, lòng từ tâm của Dân
Chúa đã bén rẽ rất sâu.
Có
thể có một lòng từ tâm của Dân Chúa trong phòng thí nghiệm được vô trùng. Nó vẫn
luôn đi ra khỏi cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể mắc phải những lỗi lầm nhỏ
- và vì thế chúng ta phải trông chừng – nhưng lòng đạo đức bình dân là một khí
cụ của việc rao giảng Tin Mừng. Chỉ cần chúng ta nghĩ tới thế hệ trẻ hôm nay.
Kinh nghiệm của Cha trong một Giáo phận khác cho thấy rằng, giới trẻ và những
phong trào dành cho giới trẻ không hoạt động tại Buenos Aires. Vì sao vậy? Thưa
vì người ta nói với họ, chúng ta gặp gỡ nhau để nói chuyện … Và rồi cuối cùng
thì những người trẻ đã buồn chán. Nhưng khi các Linh Mục thấy được cách tham
gia, và cụ thể là trong những công việc truyền giáo nho nhỏ được thực hiện
trong kỳ nghỉ, hay trong việc dậy Giáo lý trên đường, thậm chí cả trong những
ngôi làng mà tại đó không có các Linh mục, sau đó thì thấy có kết quả. Người trẻ
muốn có được động lực truyền giáo này và tự học hỏi để thấy được lòng từ tâm,
mà nó cũng là một loại đạo đức bình dân. Cũng như việc tông đồ giới trẻ là một
loại đạo đức bình dân vậy.
Lòng
đạo đức bình dân tích cực, trong một phương diện nào đó, chính là một cảm thức
Đức Tin – như Đức Phao-lô VI đã nói – rất có chiều sâu, và chỉ được nhận thức bởi
những con người đơn sơ và khiêm hạ. Và đó là một điều tuyệt vời!
Trong
những nơi hành hương đều có rất nhiều những chứng từ về các phép lạ! Trước đây,
cứ vào ngày 27 tháng 07 là Cha lại đi đến Thánh Địa của Thánh Pantaleo tại
Buenos Aires, và ngồi giải tội cả buổi sáng tại đó. Và cứ mỗi lần như thế Cha lại
cảm thấy mình được biến đổi và được gây gấn tượng về sự thánh thiện biết bao của
những con người đơn thành ở đây. Họ là những tội nhân nhưng đồng thời cũng là
những vị thánh, vì họ thú nhận những lỗi lầm của mình, và rồi còn nói về cuộc sống
của mình. Sau đó người ta nhận ra được ý nghĩa của Tin Mừng. Trong những điểm
hành hương, người ta thấy được chính điều đó. Các tòa giải tội được đặt tại những
nơi ấy, chính là nơi để biến đổi các Linh Mục và các Giám Mục của chúng ta. Có
thể nói được rằng, những nơi đó đang diễn ra những lớp học về sự cải biến đời sống
Đức Tin của chúng ta, vì người ta cảm nhận được lòng đạo đức bình dân tại những
nơi đó. Và khi các tín hữu đến với tòa giải tội, họ sẽ kể cho bạn biết về tất cả
những nỗi khổ đau của họ, và với tư cách là Linh Mục, bạn sẽ nhìn thấy sự tốt
lành và lòng khoan hậu của Thiên Chúa ở trong những trường hợp đó, cũng như đã
dẫn đưa những người ấy tới với tình trạng ấy. Cuộc gặp gỡ này với dân Chúa, tức
dân cầu nguyện và đang trên đường, chính là sự trợ giúp đích thực cho con đường
thi hành chức vụ Linh Mục của chúng ta.
Câu hỏi thứ ba: Khủng
hoảng căn tính Linh Mục
„Xin
cho phép con được gọi Đức Thánh Cha là Cha Phanxicô, vì tình cha cũng có nghĩa
là sự thánh thiện khi tình cha ấy là xác thực. Với tích cách là học sinh trước
đây của Dòng Tên, con đã mang ơn Dòng này vì đã dành cho con sự giáo dục trong
lãnh vực văn hóa và ơn gọi Linh Mục. Nhưng con muốn tiết lộ về một cảm tưởng
riêng: Linh Mục của ngàn năm thứ ba trông có vẻ như những điều sau: được làm
cân bằng trong lãnh vực con người và thiêng liêng; ý thức sứ vụ truyền giáo; mở
ra cho sự đối thoại với các tín ngưỡng cũng như với các tôn giáo khác. Tại sao
con lại thấy như vậy? Cha đã giới thiệu một cuộc cách mạng Copernic để nói
thông qua cách thức của Cha, thông qua phong cách sống và cách ứng xử của Cha
cũng như thông qua chứng từ đối với những vấn đề đa dạng trên bình diện quốc tế,
điều gây ấn tượng cho cả người vô thần lẫn những người mà họ đang ở xa Giáo hội.
Vậy câu hỏi của con ở đây là: trong cộng đồng ngày nay, nó sẽ có thể như thế
nào, khi một Giáo hội muốn phát triển, nhưng lại bị tụt lại rất xa so với một cộng
động mà nó rất năng động và nhiều mâu thuẫn, nhưng đồng thời cũng rất xa lạ với
các giá trị Kitô giáo? Cuộc cách mạng của Cha thuộc về ngôn học, về ngữ nghĩa,
về văn hóa và về Tin Mừng lẽ dĩ nhiên không phải là nguyên nhân gây ra một cuộc
khủng hoảng thực sự về căn tính nơi một số Linh Mục. Vậy con đường mang tính
sáng tạo nào mà Cha sẽ giới thiệu cho chúng con để vượt qua cuộc khủng hoảng
này? Con xin cám ơn Cha.“
Đức Thánh Cha:
„Vấn
đề ở đây là làm thế nào để Giáo hội đang phát triển tiến về phía trước? Anh đã nêu
ra một số thuật ngữ như sự cân bằng, đối thoại…. Vậy làm thế nào để có thể tiến
về phía trước? Anh đã sử dụng một từ ngữ rất đẹp, thậm chí Cha dám nói đó là một
Lời thuộc về Thiên Chúa: SÁNG TẠO. Đó là giới luật của Thiên Chúa dành cho Ađam:
Hãy đi và hãy làm cho mọi loài sinh sôi nẩy nở trên khắp mặt đất. Hãy sáng kiến!
Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các môn đệ của Ngài như vậy, và thực ra là nhờ
vào Chúa Thánh Thần, và chúng ta đã nhìn thấy điều đó, chẳng hạn như nơi Giáo hội
tiên khởi, trong mối tương quan với Dothái giáo: Thánh Phaolô đã rất sáng kiến.
Thánh Phêrô đã từng sợ hãi khi ông đi đến nhà Cornelio, vì Thánh Nhân nghĩ rằng,
Ngài sẽ phải thực hiện một cái gì đó mới mẻ, cũng như phải có sáng kiến. Nhưng
bất chấp tất cả, Thánh Nhân vẫn đi tới đó.
SÁNG
TẠO là một thuật ngữ. Và người ta có thể thấy được sự sáng tạo ấy như thế nào? Tất
cả đều ở phía trước – và đó là điều kiện tiên quyết, nếu chúng ta muốn sáng tạo
trong Thần Khí, tức là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta – không có
con đường nào khác ngoài việc cầu nguyện. Một Giám Mục mà không cầu nguyện, một
Linh mục mà không cầu nguyện, thì có nghĩa là đã đóng lại cánh cửa, đóng lại
con đường của sự sáng tạo rồi. Ngay trong khi cầu nguyện, khi Chúa Thánh Thần
làm cho bạn cảm thấy một cái gì đó, thì ma quỷ cũng đến để làm cho bạn cảm thấy
một cái khác; điều đó cũng có ý nghĩa nếu như sau đó việc cầu nguyện trở nên một
cái gì đó nhàm chán. Cầu nguyện là điều rất quan trọng. Và lúc này Cha không chỉ
nghĩ tới những người làm ra vẻ cầu nguyện, mà Cha còn nghĩ tới phụng vụ Thánh Lễ
mà nó được cử hành trong sự bình an và với sự khiêm nhu, hay là cầu nguyện cá
nhân với Thiên Chúa. Ai không cầu nguyện, người ấy có thể là một nhà kinh doanh
về việc chăm sóc mục vụ hay thiêng liêng nào đó, nhưng nếu Giáo hội không cầu
nguyện thì Giáo hội sẽ trở thành một tổ chức phi chính phủ và không có sự xức dầu
của Chúa Thánh Thần. Cầu nguyện là bước đầu tiên, vì nó là sự mở ra với Thiên
Chúa, để con người mở ra với nhau.
Và
chính Chúa đã phán: Hãy làm điều này, hãy làm điều kia … Và vì thế dẫn tới sự
sáng tạo, điều đòi hỏi rất nhiều những cố gắng nơi nhiều vị Thánh. Chúng ta hãy
nghĩ tới Thánh Antonio Rosmini. Sở dĩ Ngài là một nhà phê bình rất sáng tạo, là
vì Ngài đã cầu nguyện nhiều. Ngài đã viết về điều mà nó đã làm cho Ngài cảm nhận
về Chúa Thánh Thần, và vì lý do đó, Ngài đã phải đi vào trong nhà tù tinh thần,
và như thế có thể nói được rằng, Ngài đi vào trong ngôi nhà của Ngài: Ngài
không được phép nói, dậy dỗ hay viết lách về điều đó nữa. Những cuốn sách của
Ngài đã bị liệt vào hàng danh mục sách cấm. Và ngày nay Ngài là một vị Chân
Phúc của Giáo Hội!
Thường
thì vấn đề là thế này, sự sáng tạo sẽ đưa bạn tới với Thánh Giá. Nhưng nếu như
điều ấy diễn ra thông qua sự cầu nguyện, thì rồi những cây Thánh Giá ấy lại đơm
bông kết trái. Vấn đề ở đây không phải là sự sáng tạo vượt ra ngoài mọi kiểu
cách, hay đơn thuần chỉ là có tính cách mạng, vì kiểu mẫu của thời đại hôm nay
là trở thành một nhà cách mạng. Không, điều đó không có gì để làm với Chúa
Thánh Thần. Nhưng nếu như sự sáng tạo đến thông qua Chúa Thánh Thần và dẫn đưa đến
sự cầu nguyện, thì rồi sau đó những vấn đề có thể sẽ tự mất đi! Sự sáng tạo đến
thông qua việc cầu nguyện, nó có một chiều kích siêu việt thuộc về nhân loại học,
vì chúng ta tự mở ra cho sự siêu việt của Thiên Chúa thông qua sự cầu nguyện.
Nhưng
cũng có một sự siêu việt khác: tự mở mình ra với tha nhân. Nó đòi hỏi Giáo hội không
được tự khép kín trong chính mình, tức chỉ nhìn về lỗ rốn riêng của mình, một Giáo hội chỉ liên hệ đến chính mình, chỉ nhìn
vào một mình mình và không ở trong trạng thái bung ra. Sự siêu việt quan trọng
từ cái nhìn khác biệt: đi đến với Thiên Chúa và tha nhân. Đi ra khỏi chính mình
là một cuộc phiêu lưu, một con đường mà Thiên Chúa đã chỉ ra cho nhân loại,
nhưng cũng là một dân, như Ngài đã từng nói với Abraham: Hãy ra khỏi quê hương
xứ sở của ngươi! Đi ra khỏi chính mình có nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa và tha
nhân. Và điều ấy diễn ra thế nào? Từ xa
hay gần? Lẽ dĩ nhiên là gần, và thậm chí là rất gần.
Sáng
tạo, siêu việt và gần gũi: Gần gũi là một từ khóa, và như thế là ở gần và không
sợ hãi trước bất cứ điều gì, vì người thuộc về Thiên Chúa thì không hề sợ hãi.
Chính Thánh Phaolô cũng không hề sợ hãi khi Ngài nhìn thấy những bức tượng thần
tại Athen, và đã nói với những người ở đấy: Quý vị là người có tôn giáo, quý vị
có rất nhiều các vị thần… Nhưng tôi nói về một vị khác. Ngài không sợ hãi trong
việc đến gần họ, và thậm chí còn viện dẫn các nhà thơ của họ: Các nhà thơ của
quý vị đã nói thế nào? … Ngài đến gần với văn hóa nhưng cũng gần gũi với con
người và cách suy nghĩ của họ, đến gần với những đau khổ và cảm quan của họ.
Thường thì sự gần gũi này sẽ dẫn tới hành động thống hối, vì chúng ta quá phải
thường xuyên nghe tới những điều nhàm chán mà chúng đang bị vượt qua.
Cách
nay hai năm, có một Linh Mục làm việc với tư cách là nhà Truyền Giáo tại
Argentina, Ngài gốc ở Buenos Aires và đến làm việc ở miền Nam nước này, ở đó
không có Linh Mục và thay vào đó là có rất nhiều người Tin Lành., Ngài đã nói với
Cha rằng, Ngài đến nhà một người phụ nữ, bà ấy là một giáo viên, và thậm chí
sau này còn trở thành hiệu trưởng của trường học thuộc ngôi làng đó. Người phụ
nữ này để cho Ngài ngồi yên vào ghế và bắt đầu la mắng Ngài, không phải chỉ với
những lời la rầy nhẹ nhàng, nhưng là với những lời rất độc địa. ´Quý vị đã để
cho chúng tôi cô đơn, tôi cần Lời Chúa và đã phải đi đến với một người Thệ Phản
và vì thế chính tôi đã trở thành một nữ Thệ Phản` - bà ta nói. Vị Linh Mục trẻ
này rất bình tĩnh và cũng là một người cầu nguyện. Để cho cơn thịnh nộ của người
phụ nữ ấy dịu xuống, sau đó Ngài mới nói: ´Tôi chỉ nói một lời thôi: xin tha thứ.
Xin hãy tha thứ cho chúng tôi! Chúng tôi đã để cho đoàn chiên phải bơ vơ.` Và rồi
người phụ nữ ấy đã thay đổi ngay tức khắc giọng điệu của bà. Bà ta vẫn đang còn
là người Thệ Phản, nhưng vị Linh Mục đã không nói về điều ấy, không yêu cầu bà
phải thống hối. Thậm chí lúc bấy giờ Ngài cũng đã không hề đề cập một tí gì về
chuyện đó. Nhưng cuối cùng thì bà ấy cười và nói: ´Thưa Cha, con mời Cha dùng
cà-phê!` - ´Vâng, chúng ta cùng uống cà phê với nhau nhé?`. Khi vị Linh mục đứng
lên ra về, bà ta đã nói: ´Thưa Cha, xin từ từ hẵng về. Con muốn mời Cha đến xem
cái này!` Thế rồi bà ta đi vào trong phòng ngủ và mở cửa tủ ra. Bà ấy chỉ cho vị
Linh mục thấy một bức ảnh Đức Mẹ đang được đặt trong đó. ´Cha phải biết rằng, Đức
Mẹ đã không hề bỏ rơi con trong những lúc hoạn nạn. Con đã cất giấu bức ảnh này
ở đây trước vị Mục Sư Thệ Phản, nhưng Đức
Mẹ chưa bao giời rời khỏi ngôi nhà này`. Câu chuyện vừa rồi dậy cho chúng ta một
điều rằng, sự gần gũi đã dẫn con người ta tới sự dịu dàng, đã làm cho người phụ
nữ ấy được tái giao hòa với Giáo hội, vì bà ấy đã có cảm giác như mình bị bỏ
rơi bởi Giáo hội. Và Cha đã đặt ra cho vị Linh mục ấy một câu hỏi mà đáng lẽ người
ta không bao giờ được phép đặt ra, và cụ thể là: cuối cùng thì sao? Vị Linh Mục
ấy đã sửa lỗi Cha ngay lập tức và nói: ´Ấy nhưng mà con đã không hỏi tiếp: bà ấy
vẫn còn đi đến nhà thờ của người Thệ Phản, nhưng người ta nhìn thấy bà ấy là một
phụ nữ cầu nguyện, và rồi sau đó thì Thiên Chúa sẽ làm những gì Ngài muốn.` Vị
Linh Mục đã không đến nhà bà ấy nữa, và bà ấy cũng không mời Ngài đến để tái
gia nhập Giáo hội Công giáo.
Đó
là chính sự giúp đỡ mà qua đó người ta biết những giới hạn nằm ở đâu. Nhưng sự
gần gũi cũng có nghĩa là đối thoại; người ta phải đọc Thông Điệp Ecclesiam Suam
của Đức Phao-lô VI, trong đó quyền giáo huấn nói về đối thoại, và đó cũng chính
là điều được lập lại bởi các Đức Giáo Hoàng khác.
Đối
thoại thì rất quan trọng, nhưng để đối thoại được với nhau, đòi hỏi phải có hai
điều kiện tiên quyết: Điểm xuất phát là căn tính riêng, và sau đó là sự đồng cảm
với người khác. Nếu tôi không bảo đảm về căn tính riêng của tôi, nhưng rồi sau
đó lại tìm đến một cuộc đối thoại, thì rồi tôi sẽ liều lĩnh với việc đi thương
thảo về Đức tin của mình. Người ta không thể bước vào một cuộc đối thoại mà trước
hết, không xuất phát từ căn tính riêng. Cũng cần phải có sự đồng cảm hầu không
gây ra những tiên kiến.
Bất
cứ người nam hay người nữ nào cũng có một cái gì đó riêng tư để tiếp tục trao
đi; bất cứ người nam hay người nữ nào cũng có một lịch sử riêng, một hoàn cảnh
riêng, và chúng ta phải lắng nghe họ. Sau đó sự cảnh tỉnh của Chúa Thánh Thần sẽ
chỉ ra cho chúng ta biết chúng ta nên trả lời thế nào.
Đối
thoại không có nghĩa là thực hành khoa minh giáo, dù rằng đôi khi người ta phải
làm chuyện đó, vì những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta đòi hỏi một sự giải
thích. Đối thoại là một cái gì đó rất nhân tính. Nó bao gồm con tim và tâm hồn.
Những điều đó sẽ dẫn tới sự đối thoại, và điều đó hoàn toàn quan trọng! Nó có
nghĩa là, không hề sợ hãi trước việc đối thoại với người khác. Người ta nói về
một vị Thánh và thực ra đó là một sự hài hước – và Cha không tin đó là Thánh
Philipp Neri, nếu như Cha không nhầm – rằng, Ngài cũng có thể bước vào trong cuộc
đối thoại với ma quỷ. Vì sao vậy? Thưa vì Ngài có sự tự do để lắng nghe tất cả,
nhưng luôn luôn xuất phát từ căn tính riêng. Ngài hoàn toàn chắc chắn về chính
mình. Nhưng cảm thấy mình chắc chắn không có nghĩa là tìm cách lôi kéo người ta
theo đạo.
Tìm
cách lôi kéo người khác theo đạo là một điều mà ngay cả Chúa Giêsu cũng muốn kết
án khi Ngài nói với những người Pha-ri-siêu và những người Sa-đi-sê-ô rằng:
„Các ngươi đi khắp đó đây để lôi kéo người ta theo đạo…“ Đó là một cái bẫy. Đức
Bê-nê-đíc-tô XVI có một cách đặt tên rất tuyệt vời khi Ngài áp dụng nó tại
Aparecida, và Cha tin rằng, Ngài cũng lập lại điều ấy ở những dịp khác: Giáo hội
không phát triển nhờ vào việc lôi kéo người khác theo đạo, nhưng nhờ vào sức hấp
dẫn. Và cái gì tạo ra sức hấp dẫn ấy? Thưa, đó là mối cảm thông nhân loại mà nó
được dẫn dắt thông qua Chúa Thánh Thần.
Và
nét đặc trưng của Linh Mục sẽ là thế nào trong thời đại thế tục hóa này? Linh Mục
là một con người sáng tạo, thực hiện theo mệnh lệnh của Thiên Chúa – „Đấng sáng
tạo nên các sự vật“ – một con người thuộc về sự siêu việt, với Thiên Chúa,
trong cầu nguyện, và với đồng loại, và thực ra là luôn luôn; một con người của
sự gần gũi, người đến gần người khác. Vứt bỏ con người sang một bên sẽ không
còn gì để làm với sự hiện hữu của một Linh Mục nữa, và người ta đang vô cùng
chán ngấy trước một thái độ như thế, vì con người đến với chúng ta. Nhưng ai
đón nhận con người và ở bên cạnh họ thì cũng sẽ đối thoại với họ, vì họ cảm thấy
mình có sự chắc chắn về căn tính riêng, và điều đó sẽ dẫn đưa họ tới với việc mở
con tim của chính mình ra cho sự đồng cảm. Đó là điều mà Cha có thể trả lời cho
câu hỏi của Anh.“
Câu hỏi thứ tư:
Chứng tá Đức Tin
„Kính
thưa Đức Thánh Cha khả ái, câu hỏi của con liên quan tới địa điểm, nơi mà chúng
con cư ngụ: Giáo phận, với các Đức Giám Mục của chúng con, mối quan hệ với những
người anh em của chúng con. Và con xin hỏi Đức Thánh Cha: khoảnh khắc lịch sử
này mà chúng con đang sống, có những mong chờ về các Linh Mục chúng con, và thực
ra là việc chúng con thực hiện một chứng tá rõ ràng mà nó vừa cởi mởi nhưng đồng
thời cũng rất thiện cảm – như chính Đức Thánh Cha đã mời gọi chúng con – và đó
chính là điều mở ra với sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần. Vậy theo quan điểm của Đức
Thánh Cha, Linh Đạo nào Là Linh Đạo vừa có tính đặc trưng và cũng vừa có tính nền
tảng mà một vị Linh Mục của Giáo phận phải biểu lộ? Con tin là mình đã ít nhất
một lần đọc thấy rằng, Đức Thánh Cha đã từng nói, Linh Mục không phải là một
nhà chiêm niệm. Điều đó khác với trước đây. Bây giờ Đức Thánh Cha có thể cung cấp
cho chúng con một điều gì đó mà nó có thể tạo điều kiện cho sự tái sinh và phát
triển của Giáo phận chúng con được không? Và điều gây quan tâm cho cá nhân con
là: Chúng ta có thể trở nên trung tín với con người như thế nào?“
Đức Thánh Cha:
„Anh
đã nói về ´sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần`. Đúng vậy. Nhưng Thiên Chúa là Thiên
Chúa của những điều bất ngờ, Ngài gây bất ngờ cho chúng ta luôn luôn, luôn luôn
và luôn luôn. Chúng ta hãy đọc Tin Mừng và rồi chúng ta sẽ thấy được sự bất ngờ
đối với những người khác. Chúa Giêsu gây bất ngờ cho chúng ta, vì Ngài luôn
luôn đến với chúng ta trước: Ngài chờ đợi chúng ta, Ngài yêu chúng ta trước,
khi chúng ta tìm kiếm Ngài thì Ngài cũng đã đi tìm chúng ta trước rồi. Như Ngôn
Sứ Isaia và Ngôn Sứ Jeramia đã nói, nhưng bây giờ Cha không thể trích dẫn
nguyên văn những lời ấy: Thiên Chúa giống như hoa hạnh nhân. Hoa của cây này nở
sớm nhất trong mùa Xuân. Như vậy, Chúa Giêsu cũng là người trước tiên chờ đợi
chúng ta. Đó là một điều gây bất ngờ.
Thường
thì chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa ở đây, nhưng Ngài không chờ đợi chúng ta ở chỗ
chúng ta đang tìm. Và sau đó đến với Linh Đạo của một Linh Mục Giáo phận: Ngài
là Linh Mục chiêm niệm, nhưng không phải là một linh Mục sống trong Đan Viện, vì
thế, ý của Cha không phải như anh nói trên kia. Giờ đây, người Linh Mục phải là
người chiêm niệm ở mức độ như vậy, trong khi Ngài trở nên như thế, vừa đối với
Thiên Chúa vừa đối với con người. Ngài là một người luôn lấp đầy cặp mắt và con
tim của mình bằng sự chiêm niệm ấy, và luôn hiện diện trước mặt Thiên Chúa với
Tin Mừng cũng như trước nhân loại với những vấn đề thuộc về con người. Trong ý
nghĩa đó, Ngài phải trở thành một người chiêm niệm.
Nhưng
dẫu sao chúng ta cũng không phải thực hiện việc pha trộn: một Đan Sĩ là một cái
gì đó khác. Nhưng trung tâm đời sống thiêng liêng của Linh Mục Triều nằm ở đâu?
Cha muốn nói tới nó trong mối liên hệ với Giáo phận. Vị Linh Mục phải mở ra với
Giáo phận. Linh đạo của một Tu Sĩ, chẳng hạn thế, hàm chứa trong việc tự mở ra
với Thiên Chúa, với các anh em khác trong Cộng Đoàn. Điều này có giá trị cả cho
những cộng đoàn Dòng Tu lớn lẫn cộng đoàn nhỏ. Nhưng Linh Đạo của Linh Mục Triều
thì lại chính là việc mở ra đối với Giáo phận. Còn Tu Sĩ của Giáo phận mà làm
việc trong các Giáo xứ, phải thực hiện hai điều do Thánh Bộ Giám Mục và Thánh Bộ
Dòng Tu trình bày trong một bản chỉnh lý của Huấn Thị Mutuae relationes (Văn kiện
nền tảng về các mối quan hệ giữa Dòng Tu và các Giáo Phận), vì thế người Tu Sĩ
thuộc về cả hai cơ sở.
Nhưng
hãy trở lại với tầm quan trọng của Giáo Phận: Điều đó nghĩa là gì? Nghĩa là duy
trì mối quan hệ với Giám Mục và ở trong sự thay thế với các Linh Mục khác. Mối
quan hệ với Giám Mục là điều rất quan trọng và cần thiết. Một Linh Mục Giáo phận
không thể bị chia tách khỏi Giám Mục. ´Nhưng mà Đức Giám Mục không thích tôi,
Giám Mục ở đây, Giám Mục ở đó…` Có lẽ mỗi Đức Giám Mục cũng đều có một vài nét
tiêu cực, nhưng Ngài là Giám Mục, và vẫn là Giám Mục của bạn. Và bạn cũng phải
tìm ra một cách thế trong bất cứ thái độ không tích cực nào để ở lại trong mối
quan hệ với Ngài. Nhưng dầu sao thì điều đó cũng hiếm khi xảy ra.
Tôi
là Linh Mục Giáo Phận vì tôi ở trong mối quan hệ với Giám Mục của tôi, đó là một
phương châm. Chúng ta hãy nhìn điều đó trong nghi thức phong chức Linh Mục.
Trong nghi thức này, người ta tuyên hứa tuân phục: con hứa vâng phục Cha và những
Đấng kế vị Cha. Mối liên hệ Giáo Phận có nghĩa là mối quan hệ với Giám Mục; mối
quan hệ ấy phải được khuyến khích và bảo vệ. Nói chung thì hiếm khi có những vấn
đề bão tố, nhưng đa phần chỉ là những ngày tháng bình thường.
Bình
diện thứ hai của mối quan hệ Giáo Phận là mối quan hệ với các Linh Mục khác. Sẽ
không có một Linh đạo cho Linh Mục nếu như không có hai bình diện này: Mối
tương quan với Giám Mục và Mối quan hệ với các Linh Mục khác. Cả hai đều cần
thiết. ´Với Giám Mục thì mọi sự diễn ra trôi chảy, nhưng tôi không tham gia các
cuộc hội họp của Linh mục, vì ở đó toàn nói những chuyện ngu ngốc` - một Linh Mục
tự nhủ. Nhưng rồi một cái gì đó sẽ thiếu đối với bạn, bạn sẽ không có một Linh
Đạo thật sự của một Linh Mục thuộc về Giáo phận.
Đó
là tất cả, nó nhẹ nhàng và dễ dàng, nhưng đồng thời cũng không. Nó khó khăn và
phức tạp, vì không hề đơn giản chút nào đối với việc luôn có được suy nghĩ cân
bằng với Giám Mục… Và nếu cần thì rồi người ta nên giữ sự đối thoại! Trong cuộc
đối thoại ấy, người ta cũng được phép to tiếng với nhau. Chẳng hạn như trong
các cuộc tranh cãi giữa cha mẹ và con cái: lúc tranh cãi thì to tiếng với nhau
vậy, nhưng khi kết thúc thì cha mẹ vẫn là cha mẹ, con cái vẫn là con cái. Nếu
như thuật xã giao bước vào thì rồi Chúa Thánh Thần sẽ bị đẩy sang một bên, vì
sau đó thiếu sự tự do của Thánh Thần. Người ta cũng cần phải có sự can đảm để
nói: tôi thấy điều đó không phải thế, ý của tôi thì khác. Và trong cuộc đối thoại
này cũng phải rất khiêm tốn để được sửa sai. Đó là điều rất quan trọng.
Ai
là kẻ thù lớn nhất của những mối tương giao này? – Đó là chuyện ngồi lê đôi
mách. Cha vẫn thường nghĩ – vì chính Cha cũng có cơn cám dỗ này – tất cả chúng
ta đều có điều đó, vì ma quỷ biết rằng, đó là hạt giống có thể sinh hoa kết
trái – và Cha nghĩ về mình, liệu chẳng phải đó là hệ quả của đời sống độc thân
mà nó được sống trong điều kiện vô trùng và không sinh hoa kết trái hay sao? Một
con người cô độc sẽ kết thúc trong sự cay đắng, sẽ không đơm bông kết trái và bắt
đầu nói xấu về người khác. Điều đó không đưa tới sự tốt lành, và là một rào cản
trong mối tương giao giữa Linh Mục và Giám Mục.
Ngồi
lê đôi mách là kẻ thù lớn nhất của Linh Đạo đối với Giáo phận. Một người nói, nếu
bạn có một điều gì đó để nói thì hãy nói điều đó với Giám Mục. Người khác lại
nghĩ, sẽ có những hệ quả tiêu cực. Nhưng hãy treo nó vào Thánh Giá và hãy trở
thành một người đàn ông! Nếu bạn là người chín chắn và nhìn thấy một cái gì đó
không làm hài lòng bạn trong người anh em - cũng là một Linh Mục - của bạn, thì
bạn hãy đi tới và nói cho với người anh em đó biết. Nhưng đừng đi nói với người
khác, vì bạn sẽ có thể tự gây ố cho bản
thân bạn bởi chuyện đó! Hơn nữa, ma quỷ sẽ rất hạnh phúc về chuyện đó, chúng sẽ
mở tiệc ăn mừng, vì chúng đã có thể túm lấy những thành công của đời sống
thiêng liêng.
Theo
thiển nghĩ của Cha, những cuộc ngồi lê mách lẻo sẽ đưa đến rất nhiều thiệt hại.
Lúc này đây không còn phải là một sự tò mò hậu Công Đồng nữa. Thánh Phao-lô đã
phải tự tranh luận với mình vì điều đó. Anh em hãy nhớ tới câu nói của Ngài:
´Tôi thuộc về Phao-lô, hay tôi thuộc về Apollo…?` Sự ngồi lê đôi mách đã là một
đề tài ngay từ thời bắt đầu lịch sử Giáo hội rồi, vì ma quỷ không hề muốn Giáo
hội đơm bông kết trái, hiệp nhất và vui tươi. Nhưng đâu là chỉ dấu cho thấy các
mối tương giao giữa Giám mục và Linh Mục đang diễn ra tốt đẹp? Đó là niềm vui.
Nếu như sự cay đắng là chỉ dấu cho một sự khiếm khuyết về Linh Đạo, thì niềm
vui lại là chỉ dấu cho một mối tương giao thành công. Người ta có thể đối thoại,
người ta cũng có thể trở nên xấu xa, nhưng niềm vui thì nên hiện diện tại đó và
nên khích lệ mối tương giao giữa Linh Mục và Giám Mục.“
(rv
27.07.2014 mg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét